Bản án 49/2020/DS-ST ngày 10/12/2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẠC SƠN, TỈNH HÒA BÌNH

BẢN ÁN 49/2020/DS-ST NGÀY 10/12/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Trong các ngày 12/ 11 và 10/12 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 06/2020/TLST - DS ngày 11 tháng 02 năm 2020 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 45/2020/QĐXXST-DS ngày 13/10/2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 39/2020/QĐST-DS, ngày 28/10/2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bùi Thị D1, sinh năm 1970. Địa chỉ: Xóm L 3, xã Y, huyện L, tỉnh Hòa Bình. Có mặt tại phiên tòa.

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Anh Bùi Văn T, sinh năm 1995. Địa chỉ: Xóm L 3, xã Y, huyện L, tỉnh Hòa Bình. Có mặt tại phiên tòa ngày 12/11/2020, vắng mặt tại phiên tòa ngày 10/12/2020.

2. Bị đơn: Bùi Thị D2, sinh năm 1952 Chị Bùi Thị D3, sinh năm 1980.

Cùng địa chỉ: Phố R, xã Â, huyện L, tỉnh Hòa Bình. Vắng mặt tại phiên tòa.

 3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Hữu H, sinh năm 1977. Địa chỉ: Xóm N 2, xã N, huyện Y, tỉnh Hòa Bình. Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ kèm theo, nguyên đơn trình bày: Do có quan hệ họ hàng với nhau nên bà Bùi Thị D1 có cho bà Bùi Thị D2, chị Bùi Thị D3 (con gái bà D2) vay ba lần tiền: lần thứ nhất vào ngày 21/11/2019 cho vay 13.500.000 (Mười ba triệu, năm trăm nghìn) đồng, hạn trả ngày 30/12/2019 do chị D3 nhận tiền thay bà D2; lần thứ hai vào ngày 24/11/2019 cho vay 100.000.000 (một trăm triệu) đồng, hạn trả 30/11/2019 do bà D2 nhận tiền; lần thứ ba vào ngày 25/11/2019 cho vay 100.000.000 (Một trăm triệu) đồng và 05 chỉ vàng tương ứng giá trị 20.000.000 (Hai mươi triệu) đồng, cộng 13.500.000 đồng vay trước đó thành giấy vay 135.000.000 đồng, hạn trả 30/12/2019 do cả bà D2, chị D3 trực tiếp nhận tiền. Tổng số tiền bà Bùi Thị D1 cho bà Bùi Thị D2, chị Bùi Thị D3 vay là 235.000.000 Hai trăm ba mươi lăm triệu) đồng. Các thỏa thuận vay tiền nêu trên đều được lập thành văn bản. Đến hạn trả nợ nhưng bà D2, chị D3 không trả theo thỏa thuận. Bà D1 đã nhiều lần đòi nợ nhưng các bị đơn vẫn cố tình không trả mà còn có lời lẽ xúc phạm, thách thức. Do vậy, bà Bùi Thị D1 khởi kiện với yêu cầu buộc bà Bùi Thị D2, chị Bùi Thị D3 thanh toán trả khoản tiền nợ tổng cộng là 235.000.000 (Hai trăm ba mươi lăm triệu) đồng và tiền lãi phát sinh theo quy định của pháp luật.

Phía bị đơn là bà Bùi Thị D2 trình bày: Bà không được trực tiếp vay tiền từ bà Bùi Thị D1 mà là con gái bà là Bùi Thị D3 vay. Chị D3 trước đó có vay bà D1 100.000.000 (Một trăm triệu) đồng. Do chị D3 tạm ở với bà để đi dạy học nên bà D1 đến nhà bà đòi nợ và ép nhiều quá nên ngày 24/11/2019 bà mới viết giấy nhận nợ với bà D1 thay cho chị D3 số tiền 100.000.000 (Một trăm triệu) đồng chứ bà không được vay và bà không chấp nhận trả khoản nợ này thay chị D3.

Chị Bùi Thị D3 đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng không có mặt mà không có lý do chính đáng. Tòa án đã xác minh địa chỉ nơi cư trú của chị Bùi Thị D3 thể hiện chị Bùi Thị D3 có địa chỉ rõ ràng; có đăng ký nhân khẩu thường trú tại địa chỉ nguyên đơn đã cung cấp cho Tòa án nhưng thường xuyên vắng mặt tại nơi đăng ký nhân khẩu thường trú, không ở một địa chỉ ổn định. Trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án chị Bùi Thị D3 không hợp tác tham gia tố tụng nên Tòa án không lấy được ý kiến của chị D3. Tòa án căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ để xem xét, giải quyết.

Các tài liệu phía nguyên đơn cung cấp gồm: Giấy vay tiền ngày 09/9/2018 dạng viết tay, bản gốc đối với khoản vay 100.000.000 đồng; Giấy vay tiền ngày 21/11/2019 dạng giấy viết tay, bản gốc đối với khoản vay 13.500.000 đồng; hai giấy vay tiền ngày 25/11/2019 trong đó một giấy ghi khoản vay 100.000.000 đồng, một giấy ghi khoản vay tổng cộng là 135.000.000 đồng, dạng giấy đánh máy + viết tay, bản gốc; Bút tích vay tiền ngày 24/11/2019 dạng giấy viết tay, bản gốc. Bút tích vay tiền ngày 24/11/2019 do bà Bùi Thị D2 ký nhận. Các giấy vay còn lại do Bùi Thị D3 nhận nợ. Các giấy do Bùi Thị D3 nhận nợ có cùng dạng chữ viết nhưng hai dạng chữ ký khác nhau; giấy vay ngày 09/9/2018 và giấy biên nhận vay tiền ngày 25/11/2019 (khoản vay 100.000.000đ) có dạng chữ ký, các giấy vay tiền ngày 21/11/2019 và giấy biên nhận vay tiền ngày 25/11/2019 (khoản vay 135.000.000đ) ký dạng viết chữ "Duyên". Các giấy nhận nợ ngày 25/11/2019 còn có vân tay trong hai ô "chồng", "vợ". Tòa án đã tiến hành thu thập mẫu chữ ký, chữ viết của Bùi Thị D3 tại Trường mầm non xã Ân Nghĩa, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình, nơi chị Bùi Thị D3 công tác; thu thập bản khai, chỉ bản chứng minh nhân dân của chị Bùi Thị D3, anh Nguyễn Hữu H (chồng chị Bùi Thị D3) tại Phòng Cảnh sát Quản lý hành chính về trật tự xã hội (PC06) - Công an tỉnh Hòa Bình; đã tiến hành trưng cầu giám định chữ ký, chữ viết và dấu vân tay tại các giấy vay tiền do Bùi Thị D3 ký nhận. Tại Bản kết luận giám định số 239/KLGĐ-CAT-PC09,ngày 22/8/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hòa Bình đã kết luận: Chữ ký đứng tên Bùi Thị D3 dưới mục Người vay tiền trên giấy vay tiền ngày 09/9/2018 và dưới mục vay tiền ngày 25/11/2019 (khoản vay 100.000.000đ) với mẫu chữ ký của Bùi Thị D3 là của một người ký ra. Chữ viết trên giấy vay tiền ngày 09/9/2018, giấy biên nhận vay tiền ngày 25/11/2019 và chữ ký "Duyên" dưới mục Người viết đơn trên Giấy vay tiền ngày 21/11/2019 và dưới mục Bên B trên Giấy Biên nhận vay tiền ngày 25/11/2019 (khoản vay 135.000.000đ) với mẫu chữ viết của Bùi Thị D3 do cùng một người viết ra. Dấu vân tay trong ô "vợ" trên hai giấy Biên nhận vay tiền ngày 25/11/2019 là của Bùi Thị D3. Dấu vân tay trong ô "chồng" trên hai giấy Biên nhận vay tiền ngày 25/11/2019 không phải của Nguyễn Hữu H mà là của Bùi Thị D3.

Tại phiên tòa, phía nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu của mình.

Phía đại diện Viện kiểm sát nhận định về tố tụng: Thẩm phán, Thư ký Tòa án đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự khi giải quyết vụ án từ khi thụ lý vụ án đến khi xét xử. Hội đồng xét xử đã tuân thủ đầy đủ các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm. Đối với nguyên đơn đã thực hiện đúng các quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật tố tụng. Đối với bị đơn có địa chỉ rõ ràng nhưng không thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; không hợp tác tham gia tố tụng. Về nội dung vụ án: thấy rằng: các giấy vay tiền đều do chị Bùi Thị D3 viết và ký nhận vay, không liên quan đến anh Nguyễn Hữu H. Việc bà Bùi Thị D2 có bút tích vay tiền là do bà D1 đòi nợ nhiều lần nên bà D2 với tư cách là mẹ đẻ chị D3 viết để bà D1 yên tâm, chứ bà D2 không trực tiếp vay, không bảo lãnh việc vay nên bà D2 không phải có nghĩa vụ thanh toán trả các khoản nợ nêu trên. Do vậy, cần buộc một mình chị Bùi Thị D3 có nghĩa vụ thanh toán trả các khoản nợ nêu trên cho bà Bùi Thị D1 là có căn cứ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Quan hệ pháp luật trong vụ án được xác định là Tranh chấp hợp đồng vay tài sản vì các đương sự đều là cá nhân và cho vay với mục đích dân sự thông thường, không kinh doanh. Nguyên đơn, các bị đơn đều có nơi cư trú tại huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình nên Tòa án nhân dân huyện Lạc Sơn thụ lý giải quyết là đúng quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Các bị đơn không tham gia hòa giải mà không có lý do nên vụ án không tiến hành hòa giải được theo quy định tại khoản 1 Điều 207 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Các bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được Tòa án triệu tập đến phiên tòa lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt họ theo quy định tại điểm b, khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Theo các tài liệu có trong hồ sơ phản ánh Bùi Thị D3 có vay tiền bà Bùi Thị D1 các lần vào ngày 09/9/2018 với số tiền 100.000.000 đồng; ngày 21/11/2019 với số tiền 13.500.000 đồng; ngày; ngày 25/11/2019 với số tiền 100.000.000 và 05 chỉ vàng (tính tương đương 20.000.000 đồng). Các lần vay đều lập giấy tờ do Bùi Thị D3 ký nhận. Tại phiên tòa nguyên đơn xác nhận ngày 25/11/2019 có 02 giấy biên nhận vay tiền thì Giấy biên nhận khoản 100.000.000 đồng là giấy xác nhận lại khoản nợ vay ngày 09/9/2018, còn Giấy biên nhận vay tiền với số tiền 135.000.000 đồng là khoản vay mới 100.000.000 đồng + 05 chỉ vàng (tương đương 20.000.000 đồng) và 13.500.000 đồng vay trước đó thành 135.000.000 đồng. Đối với bà Bùi Thị D2 khai không được vay tiền và bút tích nhận nợ ngày 24/11/2019 là do bà viết vì bà bị nguyên đơn thúc ép trả nợ. Tại phiên tòa nguyên đơn thừa nhận bà Bùi Thị D2 không trực tiếp vay tiền. Đối với các giấy vay ngày 25/11/2019 còn có cả dấu vân tay của anh Nguyễn Hữu H là chồng chị D3. Tuy nhiên qua kết quả giám định chữ viết, chữ ký thì các giấy vay đều do chị D3 viết và ký, dấy vân tay tại ô “chồng” đều là dấu vân tay của chị D3. Nguyên đơn cũng xác nhận khi vay không có mặt anh Nguyễn Hữu H. Như vậy, có đủ căn cứ xác nhận các khoản vay nêu trên đều do chị Bùi Thị D3 trực tiếp vay. Tổng cộng số tiền vay là 100.000.000 đ + 100.000.000đ + 13.500.000đ + 20.000.000đ = 233.500.000 (Hai trăm ba mươi ba triệu, năm trăm nghìn) đồng, chứ không phải là 235.000.000 đồng như đơn khởi kiện trình bày. Tại phiên tòa, nguyên đơn đã thừa nhận sai sót này. Như vậy, cần buộc chị Bùi Thị D3 có nghĩa vụ thanh toán trả cho bà Bùi Thị D1 các khoản tiền gốc tổng cộng là 233.500.000 đồng là có căn cứ chấp nhận.

[3] Về lãi suất: Khoản vay 100.000.000 đồng ngày 09/9/2018 là khoản vay có lãi nhưng các bên không ghi rõ mức lãi suất. Khoản vay này được xác định lại vào ngày 25/11/2019 vẫn là 100.000.000 đồng tiền gốc và không thỏa thuận lãi, hạn trả vào ngày 25/11/2019. Các khoản vay khác (tổng 133.500.000 đồng) không có lãi và hạn trả vào ngày 25/12/2019. Tuy các thỏa thuận không có lãi nhưng khi đến hạn bên vay không trả nợ thì bên cho vay có quyền yêu cầu trả lãi theo quy định tại khoản 4 Điều 466 của Bộ luật dân sự. Do vậy yêu cầu tính lãi của bà Bùi Thị D1 là có căn cứ. Mức lãi suất được tính 10%/năm theo quy định tại khoản 4 Điều 466 và khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự. Thời hạn tính lãi của khoản vay 100.000.000 đồng được tính từ ngày 26/11/2019 đến thời điểm xét xử (ngày 10/12/2020) là 12 tháng 14 ngày: 100.000.000đ x 10%/năm = 10.000.000đ/năm; tương đương 833.000đ/tháng, 27.760đ/ngày. Số tiền lãi của khoản vay này là: (833.000đ x 12 tháng) + (27.760đ x 14 ngày) = 10.384.640 đồng. Khoản vay 133.500.000 đồng được tính từ ngày 26/12/2019 đến thời điểm xét xử là 11 tháng 14 ngày: 133.500.000đ x 10%/năm = 13.350.000đ/năm; tương đương 1.125.000đ/tháng, 37.500đ/ngày. Số tiền lãi của khoản vay này là: (1.125.000đ x 11 tháng) + (37.500đ x 14 ngày) = 12.900.000 đồng. Tổng cộng các khoản lãi là 23.284.640 đồng. Tổng cộng cả gốc và lãi là 256.784.640 (Hai trăm năm mươi sáu triệu, bảy trăm tám mươi tư nghìn, sáu trăm bốn mươi) đồng.

[3] Về án phí, chi phí tố tụng: Bị đơn là chị Bùi Thị D3 phải chịu án phí theo quy định tại khoản 1 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 274; khoản 1 Điều 275; Điều 280, 463, 466 và 468 của Bộ luật dân sự 2015.

Căn cứ vào khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 1 Điều 147; Điều 161; Điều 271, 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; khoản 2, Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội:

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là bà Bùi Thị D1; buộc chị Bùi Thị D3 có nghĩa vụ thanh toán trả cho bà Bùi Thị D1 số tiền vay gốc là 233.500.000 đồng và khoản lãi là 23.284.640 đồng, tổng cộng là 256.784.640 (Hai trăm năm mươi sáu triệu, bảy trăm tám mươi tư nghìn, sáu trăm bốn mươi) đồng là các khoản nợ phát sinh từ thỏa thuận vay tiền giữa chị Bùi Thị D3 và bà Bùi Thị D1 ngày 09/9/2018 và ngày 25/11/2019.

2. Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

3. Chi phí tố tụng: Chi phí giám định chữ ký, chữ viết là 5.625.000 đồng. Số tiền này chị Bùi Thị D3 phải chịu. Bà Bùi Thị D1 đã nộp tạm ứng 4.000.000đ và chi trả trước 1.625.000đ nên chị Bùi Thị D3 phải trả cho bà Bùi Thị D1 5.625.000 đồng.

4. Án phí: Chị Bùi Thị D3 phải chịu 12.747.850 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Bà Bùi Thị D1 được nhận lại 5.875.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai số 0002918, ngày 11/02/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lạc Sơn.

5. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhân được bản sao bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

215
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 49/2020/DS-ST ngày 10/12/2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:49/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lạc Sơn - Hoà Bình
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 10/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về