Bản án 49/2019/DS-ST ngày 22/11/2019 về tranh chấp hợp đồng mua bán

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỸ XUYÊN, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 49/2019/DS-ST NGÀY 22/11/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN

Ngày 22 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 107/2018/TLST-DS, ngày 13 tháng 12 năm 2018, về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán”. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 160/2019/QĐXXST-DS ngày 16 tháng 10 năm 2019 và quyết định hoãn phiên tòa số 111/2019/QĐXXST-DS ngày 04 tháng 11 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Trịnh Cẩm T, sinh năm 1986. Là đại diện hộ kinh doanh Xuân T.

Địa chỉ: Số 393 ấp Cỗ C, xã Ngọc T, huyện Mỹ X, tỉnh Sóc T.

Người đại diện theo ủy quyền: Bà Lê Thị Thu H, sinh năm 1993.

Địa chỉ: Số 99 đường 30/4, khóm 2, phường 1, thị xã Vĩnh C, tỉnh Sóc T. (có mặt)

- Bị đơn:

1. Bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1951. (có mặt)

2. Bà Hồ Ngọc T, sinh năm 1983. (có mặt)

3. Ông Hồ Văn T, sinh năm 1947 (Chết).

- Người thừa kế quyền, nghĩa vụ của bị đơn Hồ Văn T:

1. Bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1951 (có mặt)

2. Bà Hồ Thị T, sinh năm 1970 (vắng mặt)

3. Ông Hồ Văn T, sinh năm 1973(vắng mặt)

4. Ông Hồ Văn T, sinh năm 1976(vắng mặt)

5. Ông Hồ Hoàng T, sinh năm 1978. (vắng mặt)

6. Bà Hồ Ngọc T, sinh năm 1983 (có mặt)

7. Bà Hồ Ngọc T, sinh năm 1974(vắng mặt)

8. Ông Hồ Hoàng T, sinh năm 1985(vắng mặt)

Cùng địa chỉ: ấp Hòa T, xã Ngọc Đ, huyện Mỹ X, tỉnh Sóc T.

09. Bà Hồ Thị Ngọc T, sinh năm 1974(vắng mặt)

10. Bà Hồ Ngọc T, sinh năm 1981(vắng mặt)

Địa chỉ: ấp Hòa H, xã Ngọc Đ, huyện Mỹ X, tỉnh Sóc T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo đơn khởi kiện ngày 05/11/2018 và trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm đại diện nguyên đơn bà Lê Thị Thu H trình bày: Nguyên vào tháng 05 năm 2014 ông Trịnh Cẩm T là đại diện Hộ kinh doanh Xuân T và bà Nguyễn Thị N, bà Hồ Ngọc T có thỏa thuận mua bán bằng lời nói rằng ông Trịnh Cẩm T sẽ cung cấp các loại thức ăn và thuốc thủy sản, khi bà N, bà T đặt hàng thì hàng hóa sẽ được nhân viên giao hàng chở tận nơi tại kho bà N, bà T hoặc bà N, bà T lại tận kho Hộ kinh doanh Xuân T nhận hàng. Khi nhận đủ hàng thì phía bà N, bà T sẽ ký nhận vào sổ theo dõi giao nhận hàng. Cuối tháng Hộ kinh doanh Xuân T gữi bảng đối chiếu công nợ cho bà N, bà T kiểm tra và ký xác nhận. Thời gian thanh toán là cuối mổi vụ nuôi tôm, khi thu tôm bà N, bà T có nghĩa vụ phải thanh toán hết số tiền hàng cho Hộ kinh doanh Xuân T, bà N, bà T đặt toa hàng đầu tiên với Hộ kinh doanh Xuân T vào ngày 10/5/2014. Sau đó ngày 03/6/2018 hai bên đã chính thức ký hợp đồng mua bán bới nhau. Căn cứ vào thỏa thuận mua bán trên Hộ kinh doanh Xuân T đã cung cấp đầy đủ số lượng và chất lượng hàng hóa như hai bên thỏa thuận, sau khi nhận hàng bà N, bà T đều ký vào sổ theo dõi và không hề có ý kiến phản đối hay khiếu nại về số lượng và chất lượng, chủng loại hàng hóa mà Hộ kinh doanh Xuân T đã giao. Tuy nhiên, bà Nguyễn Thị N, bà Hồ Ngọc T đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán với Hộ kinh doanh Xuân T là cuối vụ thu tôm bà N, bà T không thanh toán đầy đủ tiền hàng cho Hộ kinh doanh Xuân T như đã thỏa thuận. Đến ngày 31/7/2018 hai bên đối chiếu công nợ thì bà N thừa nhận còn thiếu Hộ kinh doanh Xuân T số tiền 262.611.000 đồng, ngày 16/8/2018 nợ thêm 1.220.000 đồng, ngày 18/8/2018 nợ thêm 1.160.000 đồng. Tổng cộng bà Nhân, bà T còn nợ Hộ kinh doanh Xuân T số tiền 264.991.000 đồng. Hộ kinh doanh Xuân T đã nhiều lần yêu cầu bà Nguyễn Thị N, bà Hồ Ngọc T thanh toán số tiền 264.991.000 đồng nhưng bà N và bà T không trả cho đến nay.

Nay ông Trịnh Cẩm T đại diện Hộ kinh doanh Xuân T yêu cầu Tòa án giải quyết: Buộc bà Nguyễn Thị N và bà Hồ Ngọc T phải thanh toán số tiền mua thức ăn nuôi tôm và các loại thuốc thủy sản cho ông Trịnh Cẩm T là đại diện Hộ kinh doanh Xuân T với số tiền vốn là 264.991.000 đồng và tiền lãi theo quy định của pháp luật là 10%/năm tương đương với 0.833%/tháng tạm tính từ ngày 05/9/2018 đến ngày 04/11/2019 tổng cộng là 13 tháng 29 ngày với số tiền là 30.903.250 đồng. Tổng cộng vốn và lãi tính đến ngày 04/11/2019 là 295.589.250 đồng. Và lãi suất chậm thanh toán từ ngày 05/11/2019 đến khi có quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự hoặc bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Mỹ Xuyên với mức lãi suất 10%/năm/số tiền nợ gốc. Tại phiên hòa giải và tại phiên tòa hôm nay bị đơn bà Hồ Ngọc T và Nguyễn Thị N trình bày: Nguyên vào tháng 05 năm 2014 bà và bà Hồ Ngọc T có thỏa thuận mua bán bằng lời nói rằng ông Trịnh Cẩm T đại diện Hộ kinh doanh Xuân T sẽ cung cấp các loại thức ăn và thuốc thủy sản cho gia đình bà. Hiện nay bà N, bà T còn nợ Hộ kinh doanh Xuân T số tiền 264.991.000 đồng. Nay ông Trịnh Cẩm T đại diện Hộ kinh doanh Xuân T yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà và bà Hồ Ngọc T phải thanh toán số tiền mua thức ăn nuôi tôm và các loại thuốc thủy sản cho ông Trịnh Cẩm T là đại diện Hộ kinh doanh Xuân T với số tiền vốn là 264.991.000 đồng và tiền lãi theo quy định của pháp luật là 10%/năm tương đương với 0.833%/tháng tạm tính từ ngày 05/9/2018 đến ngày 04/11/2019 tổng cộng là 13 tháng 29 ngày với số tiền là 30.903.205 đồng. Tổng cộng vốn và là tạm tính đến ngày 03/01/2019 là 295.589.250 đồng thì bà không có khả năng trả một lần được. Nên bà yêu cầu ông Trịnh Cẩm T đại diện Hộ kinh doanh Xuân T cho bà trả dần số tiền trên mỗi năm trả 20.000.000 triệu.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tố tụng: Người thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của ông Hồ Văn T là bà Hồ Thị T, ông Hồ Văn T, ông Hồ Văn T, ông Hồ Hoàng T, bà Hồ Ngọc T, ông Hồ Hoàng T, bà Hồ Thị Ngọc T, bà Hồ Ngọc T đã được cấp, tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo trình tự thủ tục tố tụng dân sự, vụ án được đưa ra xét xử đến lần thứ hai vẫn vắng mặt, nên Hội đồng xét xử thống nhất áp dụng điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 tiến hành xét xử vắng mặt đối với người thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của ông Hồ Văn T là bà Hồ Thị T, ông Hồ Văn T, ông Hồ Văn T, ông Hồ Hoàng T, bà Hồ Ngọc T, ông Hồ Hoàng T, bà Hồ Thị Ngọc T, bà Hồ Ngọc T.

- Về nội dung:

[1] Ông Trịnh Cẩm T yêu cầu bà Nguyễn Thị N và bà Hồ Ngọc T phải trả cho ông số tiền còn thiếu (nợ gốc) là: 264.991.000 đồng phải trả thêm phần lãi suất chậm thanh toán theo quy định của pháp luật là 10%/năm tương đương với 0.833%/tháng tạm tính từ ngày 05/9/2018 đến ngày xét xử sơ thẩm.

[2] Hội đồng xét xử xét thấy: Nguyên đơn khởi kiện có cung cấp cho Tòa án “ Bảng đối chiếu xác nhận công nợ ngày 04/6/2018” bà Hồ Ngọc T có ký tên và bà thừa nhận bà còn nợ ông T số tiền 241.550.000 đồng và “ Bảng đối chiếu xác nhận công nợ ngày 31/7/2018” bà Nguyễn Thị N có ký tên và bà thừa nhận bà còn nợ ông T số tiền 262.611.000 đồng [3] Việc bị đơn bà Nguyễn Thị N và Hồ Ngọc T không thực hiện việc thanh toán nợ đầy đủ cho nguyên đơn theo như thỏa thuận trong hợp đồng đã làm ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của nguyên đơn, do bị đơn đã vi phạm hợp đồng giao kết giữa các bên nên nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn trả nợ gốc và lãi theo hợp đồng là có căn cứ, phù hợp với quy định tại Điều 466 Bộ luật dân sự năm 2015..

[4] Còn đối với yêu cầu tính lãi của nguyên đơn vì bị đơn chậm thực hiện nghĩa vụ cho nguyên đơn. Hội đồng xét xử thấy rằng theo quy định tại Điều 357 của Bộ luật dân sự năm 2015 thì trong trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả thì bên đó phải trả lãi đối với số tiềm chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả theo quy định khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015. Đối chiếu theo quy định trên thì do bị đơn không thực hiện nghĩa vụ thanh toán cho nguyên đơn do đó cần chấp nhận yêu cầu tính lãi của nguyên đơn là phù hợp, việc tính lãi từ ngày 05/9/2018 là ngày vi phạm hợp đồng cho đến ngày xét xử sơ thẩm (ngày 04/11/2019) là 13 tháng 29 ngày, cụ thể như sau:

Số nợ: 264.991.000 đồng x 10%/năm x 13 tháng 29 ngày = 30.903.250 đồng Tổng cộng vốn và lãi là 264.991.000 đồng + 30.903.250 đồng = 295.589.250 đồng

[5] Như đã phân tích ở trên, Hội đồng xét xử cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bị đơn phải thanh toán toàn bộ khoản nợ là 295.589.250 đồng trong đó số tiền vốn là 264.991.000 đồng, lãi là 30.903.250 đồng.

[6] Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 thì bị đơn phải chịu toàn bộ án phí là đồng. Nguyên đơn không phải chịu án phí sơ thẩm, nguyên đơn được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng: Khoản 3 Điều 26; Điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39, điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; Điều 147; Điều 271; khoản 1 Điều 273 và khoản 1 Điều 280 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

- Áp dụng: Điều 357; Điều 430; Điều 440; khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015;

- Căn cứ khoản 2 và khoản 5 Điều 26 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Trịnh Cẩm T Buộc các bị đơn bà Nguyễn Thị N, bà Hồ Ngọc T và người thừa kế quyền và nghĩa vụ của ông T: bà Hồ Thị T, ông Hồ Văn T, ông Hồ Văn T, ông Hồ Hoàng T, bà Hồ Ngọc T, ông Hồ Hoàng T, bà Hồ Thị Ngọc T, bà Hồ Ngọc T phải có trách nhiệm liên đới hoàn trả cho nguyên đơn ông Trịnh Cẩm T số tiền là 295.589.250 đồng trong đó số tiền vốn là 264.991.000 đồng, lãi là 30.903.250 đồng.

Khi bản án có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày ông Trịnh Cẩm T có đơn yêu cầu thi hành án thì hàng tháng bà Nguyễn Thị N, bà Hồ Ngọc T, bà Hồ Thị T, ông Hồ Văn T, ông Hồ Văn T, ông Hồ Hoàng T, bà Hồ Ngọc T, ông Hồ Hoàng T, bà Hồ Thị Ngọc T, bà Hồ Ngọc T còn phải trả lãi cho ông Trịnh Cẩm T theo quy định khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

2. Án phí dân sự sơ thẩm:

- Nguyên đơn ông Trịnh Cẩm T không phải chịu án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm và được hoàn lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 6.735.143 đồng, theo biên lai thu số 0005322, ngày 12/12/2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng.

- Bị đơn bà Nguyễn Thị N, bà Hồ Ngọc T và người thừa kế quyền và nghĩa vụ của ông T: bà Hồ Thị T, ông Hồ Văn T, ông Hồ Văn T, ông Hồ Hoàng T, bà Hồ Ngọc T, ông Hồ Hoàng T, bà Hồ Thị Ngọc T, bà Hồ Ngọc T phải chịu là 14.794.712 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (đối với đương sự vắng mặt thì thời hạn kháng cáo được tính kể từ ngày nhận được bản án, hoặc bản án được niêm yết công khai tại Ủy ban nhân dân nơi cư trú) để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử theo trình tự phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

243
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 49/2019/DS-ST ngày 22/11/2019 về tranh chấp hợp đồng mua bán

Số hiệu:49/2019/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mỹ Xuyên - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 22/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về