Bản án 49/2018/HNGĐ-ST ngày 29/08/2018 về tranh chấp xin ly hôn, nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN BIÊN, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 49/2018/HNGĐ-ST NGÀY 29/08/2018 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 29 tháng 8 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 51/2018/TLST-HNGĐ ngày 16 tháng 3 năm 2018 về việc tranh chấp “Xin ly hôn và nuôi con chung”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 81/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 24 tháng 7 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 46/2018/QĐST-HNGĐ ngày 10 tháng 8 năm 2018, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lê Thị Diệu H, sinh năm 1982

Địa chỉ: Ấp H, xã N Y, huyện A, tỉnh Kiên Giang

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Thanh S, sinh năm 1979

Địa chỉ: Ấp T, xã T Y, huyện A, tỉnh Kiên Giang.

(Chị H có mặt tại phiên tòa, anh S vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và những ý kiến tại Tòa án chị Lê Thị Diệu H trình bày như sau:

Chị Lê Thị Diệu H và anh Nguyễn Thanh S chung sống với nhau ngày 16/11/2002 và có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán ở địa phương và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã N Y. Vợ chồng sống hạnh phúc được khoảng 18 tháng thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do anh S có mối quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác nên vợ chồng thường xuyên phát sinh mâu thuẫn và anh S đã bỏ nhà để chung sống với người phụ nữ khác hơn 14 năm nay và vợ chồng đã thật sự ly thân từ đó cho đến nay.

Về con chung: Vợ cH có 01 người con tên Nguyễn Quốc T, sinh ngày 19/8/2003, hiện chị đang nuôi dưỡng. Khi ly hôn chị H yêu cầu được nuôi dưỡng con chung tên Nguyễn Quốc T, sinh ngày 19/8/2003, không yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con cùng chị.

Về tài sản và nợ chung: Không có, không yêu cầu tòa án giải quyết. Ngoài ra chị H không yêu cầu gì thêm.

Bị đơn anh Nguyễn Thanh S đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải (02 lần), nhưng anh S không hợp tác và cũng không trình bày ý kiến của mình nên Tòa án không tiến hành hòa giải được và đưa vụ án ra xét xử vụ án theo thủ tục chung.

Cháu Nguyễn Quốc T, sinh ngày 19/8/2003 có ý kiến: Khi cha mẹ cháu chấm dứt quan hệ hôn nhân thì cháu T có nguyện vọng ở với mẹ, ngoài ra không yêu cầu gì thêm.

Tài liệu, chứng cứ liên quan đến vụ án gồm: Đơn khởi kiện xin ly hôn; trích lục kết hôn; giấy chứng minh nhân dân và sổ hộ khẩu; giấy khai sinh tên Nguyễn Quốc T; đơn xác nhận tình trạng cư trú của đương sự; biên bản ghi lời khai của đương sự; Biên bản xác minh ngày 19/7/2018.

Kết quả thu thập chứng cứ:

Theo các biên bản xác minh ngày 19/7/2018 làm việc với đại diện Ban lãnh đạo ấp T và ấp H cho thấy chị H và anh S chung sống với nhau năm 2002, nguyên nhân là do vợ chồng không hợp nhau, thường xuyên cự cải, bất hòa hôn nhân không hạnh phúc, vợ chồng có 01 đứa con tên Nguyễn Hoàng T hiện đang sống với chị H.

Tại phiên tòa hôm nay:

Chị H giữ nguyên yêu cầu, ý kiến như đã trình bày trên. Anh S vắng mặt nên không có ý kiến.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện An Biên phát biểu quan điểm:

- Về thủ tục tố tụng: Từ khi thụ lý cho đến khi đưa vụ án ra xét xử và tại phiên tòa hôm nay, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký và các bên đương sự đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên, về thủ tục trước khi niêm yết thiếu biên bản về việc không thực hiện tống đạt trực tiếp cho đương sự có xác nhận của Tổ Trưởng tổ dân phố hoặc Công an xã nên vi phạm khoản 5 Điều 177 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung: Xét thấy yêu cầu xin ly hôn, nuôi con chung của chị Lê Thị Diệu H đối với anh Nguyễn Thanh S là có căn cứ chấp nhận theo quy định tại các Điều 51 Luật hôn nhân và gia đình.

Về con chung: Xét theo nguyện vọng của cháu Nguyễn Quốc T có nguyện vọng sống với mẹ là chị Lê Thị Diệu H là có căn cứ chấp nhận theo khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình 2014.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Chị H xin ly hôn với anh S, các đương sự có nơi cư trú trên địa bàn huyện An Biên. Căn cứ vào các Điều 28, 35 và 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang.

[2] Về thủ tục tố tụng: Sau khi vụ án được thụ lý, Tòa án đã giao các văn bản tố tụng hợp lệ cho các đương sự, thông báo về việc thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải (02 lần), quyết định đưa vụ án ra xét xử và quyết định hoãn phiên tòa nhưng anh S vắng mặt không lý do nên Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt anh S theo thủ tục chung.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị H và anh S cưới nhau vào năm 2002, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã N Y, huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang theo giấy Chứng nhận kết hôn số 94/2004 ngày 02/4/2004 nên hôn nhân của anh chị là hợp pháp.

Quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa Chị H xin được ly hôn với anh S, do vợ chồng sống không hợp nhau, bất đồng quan điểm sống nên thường xuyên cự cải, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng không thể hàn gắn được, anh chị đã ly thân khoảng 14 năm nay. Còn anh S thì trong suốt quá trình giải quyết vụ án đã được Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng và thông báo hòa giải hợp lệ nhiều lần đến Tòa án để tiến hành hòa giải, hàn gắn tình cảm, trở về đoàn tụ nhưng anh S không hợp tác và cũng không trình bày ý kiến gì gửi đến Tòa án đối với yêu cầu xin ly hôn của chị H;

Tuy nhiên, qua xác minh ngày 19/7/2018 ý kiến của đại diện Ban lãnh đạo ấp đã xác định, trong quá trình vợ chồng chị H và anh S chung sống thì anh chị thường xuyên cự cải, bất hòa đời sống hôn nhân không hạnh phúc nên vợ chồng đã sống ly thân từ mấy năm nay (Bút lục 40, 41). Tại phiên tòa hôm nay, chị H cương quyết xin ly hôn với anh S. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy hôn nhân giữa chị H và anh S đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Hội đồng xét xử thấy yêu cầu xin ly hôn của chị H là có căn cứ chấp nhận theo quy định tại các Điều 51 và Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[4] Về con chung và cấp dưỡng: Căn cứ giấy khai sinh số 337/2004 ngày 02/4/2004 quyển số 03/2004 đăng ký tại Ủy ban nhân dân xã Nam Yên, huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang nên Hội đồng xét xử có cơ sở xác định chị H và anh S có 01 người con chung tên Nguyễn Quốc T, sinh ngày 19/8/2003. Theo nguyện vọng vủa cháu Nguyễn Quốc T khi chị H với anh S ly hôn thì sống với chị H, chị H xác địng chị hoàn toàn có đủ điều kiện nuôi con chung, khôgn yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con chung.  Thấy rằng đây là sự tự nguyện ý kiến, yêu cầu của đương sự, không trái đạo đức xã hội và phù hợp theo quy định tại Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử ghi nhận.

Anh S có quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai đươc ngăn cản. Vì lợi ích của con, khi cần thiết cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 có quyền yêu cầu Tòa án xem xét và quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con hay mức cấp dưỡng nuôi con.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Chị H xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không đề cập xem xét giải quyết.

[6] Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Căn cứ Điều 144 và Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 Nghị quyết quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án. Do chị H là nguyên đơn nên chịu toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm.

[7] Xét ý kiến của đại diện Viện kiểm sát: Về thủ tục tố tụng, trước khi niêm yết Tòa án có xác minh về tình trạng cư trú của đương sự, đồng thời nêu lý do trước khi làm thủ tục niêm yết đều có xác nhận của Trưởng ấp, với kiến nghị của Viện kiểm sát Tòa án cùng cần điều chỉnh lại hình thức biên bản cho phù hợp khoản 5 Điều 177 của Bộ luật tố tụng dân sự; và về nội dung vụ án là có căn cứ chấp nhận theo quy định các Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83 và 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 như đã nhận định trên.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83 và 84 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014; khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 144, Điều 147, khoản 2 Điều 227, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho ly hôn giữa chị Lê Thị Diệu H và anh Nguyễn mThanh S.

2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Quốc T, sinh ngày 19/8/2003 cho chị H tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục theo nguyện vọng của cháu Nguyễn Quốc T;

Anh S có quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được ngăn cản. Vì lợi ích của con, khi cần thiết cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 có quyền yêu cầu Tòa án xem xét và quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con;

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Do chị H không có yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không đề cập xem xét giải quyết.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Chị H khai nhận không có, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết trong vụ án này.

4. Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Chị Lê Thị Diệu H có nghĩa vụ nộp tiền án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng), nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đ theo biên lai thu số 0001440 ngày 16/3/3018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang. Vậy chị H đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo:

Án xử công khai, đương sự có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp Bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành bản án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

270
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 49/2018/HNGĐ-ST ngày 29/08/2018 về tranh chấp xin ly hôn, nuôi con chung

Số hiệu:49/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Biên - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:29/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về