Bản án 49/2018/HNGĐ-ST ngày 08/11/2018 về tranh chấp ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LIÊN CHIỂU, TP ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 49/2018/HNGĐ-ST NGÀY 08/11/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 08 tháng 11 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 397/2018/TLST-HNGĐ ngày 28 tháng 8 năm 2018 về “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 55/2018/QĐXXST-HNGĐ, quyết định hoãn phiên tòa số 34/2018/QĐST-HN ngày 23.10.2018 ngày 08.10.2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Trịnh Thị C - Sinh năm 1990.có mặt

Trú tại: tổ 01 KL, phường HHB, quận L, TP Đà Nẵng.

- Bị đơn: Ông Trương Văn S - Sinh năm 1990.vắng mặt lần thứ hai không có lý do

Trú tại: Tổ 21, phường HKN, quận L, Tp Đà Nẵng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn xin ly hôn, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà hôm nay nguyên đơn bà Trịnh Thị C trình bày:

+ Về quan hệ hôn nhân: Tôi và ông Trương Văn S kết hôn vào năm 2013 có đăng ký kết hôn tại UBND phường HKB, quận L, TP Đà Nẵng, hôn nhân trên cơ sở tự nguyện. Trong thời gian chung sống vợ chồng luôn phát sinh mâu thuẫn do vợ chồng tôi bất đồng quan điểm sống, tính tình không hòa hợp, chồng tôi thường xuyên gây nợ nần bên ngoài, tôi khuyên nhủ nhưng vẫn không có kết quả quá bức xúc nên tôi đã dọn ra ngoài sống và chúng tôi đã sống ly thân từ tháng 3 năm 2017 cho đến nay, xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn không giải quyết được vì vậy tôi yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh Trương Văn S.

Về con chung: Tôi xác nhận tôi và anh S có 01 con chung tên là Trương Đăng K - sinh ngày 03.12.2013. Ly hôn tôi xin nuôi con chung và yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000 đồng.

Về tài sản chung, nợ chung: Tôi xác nhận không có .

* Bị đơn là ông Trương Văn S không đến Tòa án để trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn cũng như không tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án và các thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải.

* Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Liên Chiểu:

- Về thủ tục tố tụng: Về việc tuân theo pháp uật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử cũng như việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn bà Trịnh Thị C kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm hội đồng xét xử nghị án; bị đơn ông Trương Văn S không chấp hành nghiêm pháp luật, vắng mặt tại phiên tòa mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ.

-Về nội dung vụ án: xét thấy về quan hệ hôn nhân mâu thuẩn của bà C và ông S đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được mâu thuẩn vợ chồng đã được UBND phường HKN xác nhận nên căn cứ vào Điều 51,56 Luật Hôn nhân gia đình 2014 đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà C.

Về con chung có một con chung tên là Trương Đăng K, sinh ngày 03.12.2013. Hiện nay bà C là người đang trực tiếp nuôi dưỡng, con chung còn nhỏ nên đề nghị HĐXX giao con chung cho bà C nuôi dưỡng là hoàn toàn phù hợp với Điều 81,Điều 82 Luật HN&GĐ.

Về cấp dưỡng nuôi con cần buộc ông S phải có nghĩa vụ cấp dưỡng tiền nuôi con chung theo yêu cầu của bà C.

Về tài sản chung, nợ chung: không có nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, HĐXX nhận định:

 [1].Về thủ tục tố tụng:

Về thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Tranh chấp ly hôn giữa bà Trịnh Thị C và ông Trương Văn S thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, TP Đà Nẵng theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải:

Tòa án đã mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ cho đương sự vắng mặt theo quy định tại Điều 208, 209, 210, 211 của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn không xuất trình thêm chứng cứ mới.

Tại phiên toà lần thứ nhất ngày 23.10.2018 và cũng như phiên toà hôm nay Toà án đã triệu tập, niêm yết công khai Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên toà đối với bị đơn là ông Trương Văn S, nhưng ông S vẫn vắng mặt không có lý do. Vì vậy căn cứ vào khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, Toà án xét xử vắng mặt ông S.

[2].Về nội dung tranh chấp: Xét yêu cầu khởi kiện của bà Trịnh Thị C và ông Trương Văn S thì thấy:

- Về quan hệ hôn nhân: bà Trịnh Thị C và ông Trương Văn S kết hôn vào năm 2013 có đăng ký kết hôn tại UBND phường HKB, quận L, TP Đà Nẵng, hôn nhân trên cơ sở tự nguyện.

Trong thời gian chung sống vợ chồng luôn phát sinh mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, tính tình không hòa hợp, ông S thường xuyên gây nợ nần bên ngoài, bà C khuyên nhủ nhưng vẫn không có kết quả quá bức xúc nên bà C đã dọn ra ngoài sống ly thân từ tháng 3 năm 2017 cho đến nay, xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn không giải quyết được vì vậy bà C yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh Trương Văn S.

Từ khi thụ lý vụ án đến phiên tòa sơ thẩm hôm nay bị đơn là ông Trương Văn S mặc dù đã được triệu tập hợp lệ nhưng vẫn không trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của bà C. Theo đơn xác minh tại UBND phường HKN, quận L, Tp Đà Nẵng thì cuộc sống vợ chồng giữa bà C và ông S mâu thuẫn như thế nào địa phương không rõ nhưng hiện tại thì bà C và ông S không còn chung sống với nhau. Điều đó chứng tỏ tình trạng hôn nhân giữa bà C và ông S đã đến không còn, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do đó, việc bà C yêu cầu Toà án giải quyết cho ly hôn là có căn cứ, phù hợp với quy định tại Điều 51,56 Luật HNGĐ năm 2014 nên HĐXX chấp nhận.

- Về quan hệ con chung: bà C khai nhận bà và ông S 01 con chung tên là Trương Đăng K - sinh ngày 03.12.2013. Ly hôn bà C xin nuôi con chung và yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000 đồng.

HĐXX thấy việc giao con chung cho người trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng sau ly hôn phải căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con. Từ khi bà C và ông S mâu thuẫn cho đến nay bà C đã dọn ra ngoài sinh sống, bản thân bà C cũng có công việc và thu nhập ổn định, hơn nữa con chung còn nhỏ cần sự chăm sóc của mẹ. Do đó , HĐXX xét thấy việc giao cháu Trương Đăng K cho bà C nuôi dưỡng, chăm sóc và đảm bảo quyền và lợi ích về mọi mặt của cháu và hoàn toàn phù hợp với Điều 81, 82 Luật Hôn nhân và gia đình.

Về yêu cầu cấp dưỡng nuôi con: Trong quá trình giải quyết cũng như tại phiên tòa hôm nay bà C yêu cầu ông S cấp dưỡng tiền nuôi con mỗi tháng 2.000.000 đồng.Việc nuôi con là trách nhiệm của cả hai vợ chồng do vậy cần buộc ông S phải có nghĩa vụ cấp dưỡng tiền nuôi con mỗi tháng 2.000.000 đồng (hai triệu đồng)cho đến khi con đủ 18 tuổi là phù hợp với quy định tại Điều 82 Luật HNGĐ năm 2014.

-Về tài sản chung, nợ chung: bà C khai nhận không có

Trong quá trình giải quyết vụ án, ông S cũng không có ý kiến gì đối với tài sản chung và nợ chung nên HĐXX không xem xét, giải quyết.

Nếu sau này bà C và ông S có tranh chấp về vấn đề tài sản chung, nợ chung thì có quyền khởi kiện bằng một vụ kiện dân sự khác.

- Về án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì án phí HNGĐ sơ thẩm à 300.000 đồng bà C phải nộp.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Các Điều 51, 53, 54,56,58,81,82,83,84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;; Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQHH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận đơn khởi kiện xin ly hôn của bà Trịnh Thị C đối với ông Trương Văn S.

Tuyên xử: bà Trịnh Thị C, sinh năm 1991, được ly hôn với ông Trương Văn S, sinh năm 1990.

Giấy chứng nhận kết hôn số 103/2013, quyển số 07/2013 của UBND phường HKB, quận L, TP Đà Nẵng cấp ngày 31.5.2013 không còn giá trị pháp lý.

2. Về con chung: Tuyên:

- Giao con chung là Trương Đăng K - sinh ngày 03.12.2013 cho bà Trịnh Thị C trực tiếp nuôi dưỡng chăm sóc đến tuổi trưởng thành.

- Buộc ông Trương Văn S phải c nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi Trương Đăng K mỗi tháng 2.000.000 đồng. Thời gian thực hiện cấp dưỡng nuôi con kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi con chung đủ 18 tuổi.

Các bên đương sự có mọi quyền và nghĩa vụ đối với con chung theo quy định của pháp luật. Khi vì lợi ích con chung, các bên đương sự có quyền xin thay đổi người nuôi con hoặc yêu cầu thay đổi mức cấp dưỡng tiền nuôi con.

Kể từ ngày bà Trịnh Thị C có đơn yêu cầu thi hành án, nếu ông Trương Văn S không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng như nêu trên thì còn phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo mức lãi suất cơ bản do các bên thỏa thuận được quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán.

Các bên đương sự có mọi quyền và nghĩa vụ đối với con chung theo quy định của pháp luật. Khi vì lợi ích con chung, các bên đương sự có quyền xin thay đổi người nuôi con hoặc yêu cầu thay đổi mức cấp dưỡng tiền nuôi con.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Bà C khai nhận không có

4. Về án phí:

- Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm 300.000 đồng bà Trịnh Thị C phải nộp, nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng đã nộp theo biên lai thu số 0003207 ngày 28.8.2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Liên Chiểu, Tp Đà Nẵng. Như vậy, bà C đã nộp đủ án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Án phí dân sự về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con ông Trương Văn S phải nộp 300.000 đồng.

5. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm hôm nay.

Bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

360
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 49/2018/HNGĐ-ST ngày 08/11/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:49/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Liên Chiểu - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về