Bản án 488/2018/HS-ST ngày 30/11/2018 về tội cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 488/2018/HS-ST NGÀY 30/11/2018 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 30 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 578/2018/HSST ngày 04 tháng 10 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 5400/2018/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 11 năm 2018, đối với bị cáo:

Nguyễn Thái T; sinh năm: 1998, tại Thành phố Hồ Chí Minh; thường trú: 7/1A đường N, Phường B, Quận M, Thành phố H; tạm trú: 21/3 đường L, Phường B, Quận M, Thành phố H; nghề nghiệp: làm công; trình độ văn hóa (học vấn): 4/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn S và bà Trần Thị Ngọc N; tiền sự: không có; tiền án: không có; bị bắt, tạm giam ngày: 18/5/2018; Có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Ông M. K (quốc tịch Thụy Điển), sinh năm: 1964;

Nơi lưu trú tại Việt Nam: phòng 601 Khách sạn Y2, số 40/29 đường B, Phường P, Quận M, Thành phố H; Vắng mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Chị Lư Thị Mộng K, sinh năm: 1984;

Nơi cư trú: 701/16/2 đường T, phường TH, Quận B, Thành phố H; Vắng mặt tại phiên tòa.

2. Anh Lê Triệu P, sinh ngày: 05/5/2000;

Nơi cư trú: 701/16/2 đường T, phường TH, Quận B, Thành phố H; Vắng mặt tại phiên tòa.

3. Ông Lý Minh T, sinh năm: 1962;

Nơi cư trú: 1/13/117 ấp 4, xã B, huyện B, Thành phố H; Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 11 giờ 50 phút ngày 18/5/2018, khi điều khiển xe mô tô hai bánh nhãn hiệu Yamaha Sirius, biển số 51U9-8199 đến giao lộ Bùi Viện - Đề Thám, Quận 1 thì bị cáo nhìn thấy ông M. K (quốc tịch Thụy Điển) đang đi bộ trên lề đường phía trước cùng chiều và trên tay có cầm chiếc điện thoại di động nên nảy sinh ý định chiếm đoạt. Bị cáo liền điều khiển xe áp sát từ phía sau bên phải, dùng tay trái chiếm đoạt chiếc điện thoại trên ông M. K, rồi tăng ga bỏ chạy. Bị chiếm đoạt tài sản, ông M. K tri hô lên. Nghe tiếng tri hô, anh Lê Minh T là người dân đang đi đường liền đuổi theo và tri hô lên. Bị cáo điều khiển xe chạy đến giao lộ Trần Đình Xu - Nguyễn Cư Trinh, Quận 1 thì đụng vào xe mô tô do anh Lê Triệu P điều khiển đang đi chiều ngược lại, bị cáo và anh P cùng ngã xuống đường. Lúc này, anh Thi đuổi đến kịp và cùng các anh Huỳnh Đại Duy L (Công an Phường Nguyễn Cư Trinh, Quận 1), Trần Đức M (Công an Quận 1) đang tuần tra bắt giữ được bị cáo cùng phương tiện, tang vật. Sau đó, vụ việc được chuyển cho cơ quan điều tra xử lý theo quy định.

Tài sản mà bị cáo đã chiếm đoạt của ông M. K là chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 8 Plus 64Gb màu vàng hồng có ốp lưng, theo kết luận định giá thì tài sản này trị giá 19.050.000 đồng. Cơ quan điều tra đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Nguyễn Thái T về hành vi chiếm đoạt tài sản. Tại cơ quan công an bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như trên.

Bản Cáo trạng số 402/CT-VKS-P2 ngày 01 tháng 10 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Nguyễn Thái T tội danh “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa,

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh trình bày lời luận tội, giữ quan điểm như truy tố, nêu lên các tình tiết giảm nhẹ, đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo từ 03 năm tù đến 04 năm tù và đề nghị hướng xử lý vật chứng, tài sản đã thu giữ theo quy định. Về trách nhiệm dân sự, bị hại - ông M. K - đã được giao trả lại tài sản bị chiếm đoạt và không có yêu cầu bồi thường gì, nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

- Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng nêu và xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận của bị cáo Nguyễn Thái T phù hợp với các lời khai tại cơ quan điều tra, những chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở để xác định, vào khoảng 11 giờ 50 phút ngày 18/5/2018, tại giao lộ Đề Thám - Bùi Viện, Phường Phạm Ngũ Lão, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, bị cáo đã có hành vi điều khiển xe mô tô hai bánh áp sát và dùng tay chiếm đoạt chiếc điện thoại di động trên tay của ông M. K, rồi nhanh chóng tăng ga xe bỏ chạy nhưng đã bị bắt giữ. Tài sản mà bị cáo đã chiếm đoạt là một chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 8 Plus 64Gb màu vàng hồng có ốp lưng, đã qua sử dụng; theo Kết luận định giá tài sản số 167/KL-HĐĐGTS ngày 30/5/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự, thì chiếc điện thoại có ốp lưng này trị giá 19.050.000 đồng.

[3] Thủ đoạn công khai, bất ngờ giật lấy tài sản của người khác có giá trị như nêu trên, rồi nhanh chóng tẩu thoát mà bị cáo thực hiện đã thỏa mãn đầy đủ các yếu tố cấu thành tội “Cướp giật tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 171 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017). Đồng thời, thì hành vi dùng mô tô, xe máy để thực hiện việc cướp giật tài sản là tình tiết “dùng thủ đoạn nguy hiểm”. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh truy tố bị cáo tội danh “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) là đúng quy định.

[4] Bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và ý thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, gây nguy hiểm cho xã hội nhưng vẫn cố ý thực hiện nên có lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến khách thể được luật hình sự bảo vệ đó là tài sản của công dân gây ảnh hưởng xấu đến hình ảnh của người Việt Nam trong mắt những người du lịch nước ngoài, gây mất trật tự trị an xã hội, tạo tâm lý hoang mang, lo sợ cho mọi người trong việc quản lý tài sản. Vì vậy, để giữ gìn kỷ cương pháp luật, để bảo vệ tài sản của mọi người, để củng cố niềm tin của nhân dân, cần phải xử bị cáo mức hình phạt phù hợp với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội do bị cáo gây ra nhằm mục đích giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa cho toàn xã hội.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: bị cáo được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ là “phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn” vì tài sản bị chiếm đoạt đã được thu hồi trả lại cho người bị hại; “thành khẩn khai báo”. Những tình tiết giảm nhẹ này được quy định tại các điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[6] Về xử lý vật chứng, tài sản thu giữ trong vụ án và trách nhiệm dân sự:

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone 8 Plus màu vàng hồng có ốp lưng: là tài sản bị chiếm đoạt, đã được thu hồi trả lại cho bị hại - ông M. K, việc giao trả này là đúng. Đồng thời, bị hại không có yêu cầu bồi thường thiệt hại, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

- Quá trình chạy tẩu thoát, bị cáo đã đụng vào xe mô tô màu xanh biển số 52Z8-XXYY do anh Lê Triệu P điều khiển. Xét thấy, anh P và chủ sở hữu xe là chị Lư Thị Mộng K không có yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

- 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy Grand 2 màu đen, 01 áo sơ mi dài tay sọc ca rô màu đỏ xanh, 01 quần jean màu xanh đen, 01 đồng hồ đeo tay màu trắng bạc hiệu FOURRON: là tài sản cá nhân của bị cáo, nên trả lại.

- 01 xe mô tô hai bánh hiệu Yamaha Sirius, biển số 51U9-8199: chiếc xe do ông Lý Minh T - sinh năm: 1962; nơi cư trú: 1/13/117 ấp 4, xã B, huyện B, Thành phố H - đứng tên chủ sở hữu. Ông T khai mua chiếc xe này vào năm 2002, đến khoảng năm 2007 ông đã bán chiếc xe này cho một người khác nhưng không làm thủ tục chuyển tên chủ sở hữu theo quy định. Bị cáo khai chiếc xe này do người đàn ông tên Tuấn (không rõ họ tên, địa chỉ cụ thể) cho bị cáo cách đây 04 năm và có đưa tờ giấy mua bán xe viết tay, nhưng bị cáo đã làm thất lạc. Tại thời điểm phạm tội, bị cáo không có giấy phép lái xe và giấy tờ xe xe mô tô hai bánh hiệu Yamaha Sirius, biển số 51U9-8199. Ngày 03/7/2018, Cơ quan cảnh sát điều tra có văn bản số 1654/PC44-Đ3 đề nghị đăng báo tìm người đã cho bị cáo chiếc xe mô tô hai bánh hiệu Yamaha Sirius, biển số 51U9-8199, nhưng đến nay vẫn chưa có kết quả. Xét thấy, chiếc xe này được bị cáo sử dụng làm phương tiện phạm tội, nên tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào các điểm d khoản 2 Điều 171; các điểm h, s khoản 1 Điều51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thái T phạm tội “Cướp giật tài sản”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thái T 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 18/5/2018.

2. Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước: 01 xe mô tô hai bánh hiệu Yamaha Sirius, biển số 51U9-8199, số khung: 5HU2-14462, số máy: 5HU2-14462.

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Thái T: 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy Grand 2 màu đen, 01 áo sơ mi dài tay sọc ca rô màu đỏ xanh, 01 quần jean màu xanh đen, 01 đồng hồ đeo tay màu trắng bạc hiệu FOURRON.

(Theo Lệnh nhập kho vật chứng số: 301-36, ngày 22/8/2018 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh).

3. Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; các điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo phải chịu là 200.000 đồng.

4. Căn cứ vào Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

245
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 488/2018/HS-ST ngày 30/11/2018 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:488/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về