Bản án 484/2019/DS-ST ngày 05/11/2019 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN 11, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 484/2019/DS-ST NGÀY 05/11/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 05 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân Quận 11 xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 397/2019/TLST-DS ngày 05/7/2019 về “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 89/2019/QĐXXST-DS ngày 25/9/2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 67/2019/QĐST-DS ngày 15/10/2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ngân hàng Thương mại Cổ phần V; địa chỉ trụ sở: đường L, phường L, Quận Đ, Thành phố Hà Nội; địa chỉ liên lạc: đường C, Phường K, Quận L, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Nguyễn Minh T (hoặc ông Hà Văn T) - Là người đại diện theo ủy quyền (văn bản ủy quyền ngày 06/6/2019).

Ông Nguyễn Minh T có mặt tại phiên tòa.

2. Bị đơn: Bà Trần Thị Bích L, sinh năm 1989; địa chỉ: đường Q, Phường M, Quận N, Thành phố Hồ Chí Minh; Bà L vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiên đề ngày 07/5/2019 của nguyên đơn và quá trình giải quyết vụ án ông Nguyễn Minh T là người đại diện hợp pháp của nguyên đơn trình bày:

Ngày 15/7/2016, bà Trần Thị Bích L có lập Giấy đăng ký mở và sử dụng tài khoản thanh toán, thẻ ghi nợ, dịch vụ ngân hàng điện tử và vay vốn để đề nghị Ngân hàng Thương mại Cổ phần V (viết tắt là “Ngân hàng”) vay tiền. Theo đó Ngân hàng đã chấp thuận cho bà Trần Thị Bích L vay số tiền là 21.000.000 đồng, lãi suất 42%/năm, lãi quá hạn bằng 150% lãi trong hạn, thời hạn vay là 24 tháng, mục đích vay để tiêu dùng. Theo thỏa thuận trong hợp đồng, bà L có trách nhiệm thanh toán cho Ngân hàng số tiền nợ gốc và nợ lãi hàng tháng theo quy định được hai bên thỏa thuận trong Hợp đồng tín dụng giải ngân ngày 23/7/2016. Thực hiện hợp đồng, Ngân hàng đã giải ngân và bà L đã nhận đủ số tiền vay, bà L đã thanh toán cho Ngân hàng được 03 kỳ với số tiền trả nợ gốc là 1.752.282 đồng và tiền lãi là 2.268.293 đồng. Kể từ ngày 04/11/2016, bà L không thanh toán thêm bất kỳ khoản tiền nào cho Ngân hàng. Ngân hàng đã nhiều lần làm việc, nhắc nhở nhưng bà L vẫn không thực hiện việc trả nợ. Tính đến ngày 05/11/2019, bà Trần Thị Bích L còn nợ Ngân hàng số tiền tổng cộng là 56.184.765 đồng, trong đó, nợ gốc là 19.247.718 đồng, nợ lãi trong hạn và lãi quá hạn là 36.937.047 đồng.

Tại phiên tòa, Nguyên đơn Ngân hàng Thương mại Cổ phần V do ông Nguyễn Minh T làm đại diện yêu cầu Tòa án buộc bà Trần Thị Bích L trả số tiền tổng cộng là 56.184.765 đồng (Năm mươi sáu triệu một trăm tám mươi bốn nghìn bảy trăm sáu mươi lăm đồng), trong đó, nợ gốc là 19.247.718 đồng, nợ lãi trong hạn và lãi quá hạn là 36.937.047 đồng, trả một lần sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Ngân hàng chỉ cho cá nhân bà Trần Thị Bích L vay tiền, không liên quan đến người khác, do đó Ngân hàng chỉ yêu cầu cá nhân bà L có trách nhiệm trả cho Ngân hàng số tiền còn nợ nêu trên.

Bị đơn bà Trần Thị Bích L đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không rõ lý do.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 11 phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật như sau:

- Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án chưa thực hiện đúng một số thủ tục về thời gian giao các văn bản tố tụng. Tại phiên tòa, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng các quy định của pháp luật. Nguyên đơn, người đại diện theo pháp luật của nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình. Bị đơn chưa thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Bị đơn chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, ý kiến của đại diê n Viê n kiểm sát nhân dân Quâ n 11 tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Ngân hàng Thương mại Cổ phần V khởi kiện yêu cầu bà Trần Thị Bích L trả số tiền còn nợ. Theo Kết quả xác minh của Công an Phường M, Quận N, Thành phố Hồ Chí Minh thì bị đơn bà Trần Thị Bích L có đăng ký hộ khẩu thường trú tại địa chỉ đường Q, Phường M, Quận N, Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng hiện bà L không có ở địa phương từ năm 2017 đến nay. Theo hướng dẫn tại điểm a khoản 2 Điều 6 của Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì: “Trường hợp người bị kiện thay đổi nơi cư trú gắn với việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong giao dịch, hợp đồng mà không thông báo cho người khởi kiện biết về nơi cư trú mới theo quy định tại khoản 3 Điều 40, điểm b khoản 2 Điều 277 Bộ luật dân sự năm 2015 thì được coi là cố tình giấu địa chỉ và Tòa án tiếp tục giải quyết theo thủ tục chung”.

Bị đơn có đăng ký thường trú tại Quận 11 nên vụ án này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận 11 theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn bà Trần Thị Bích L đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai vẫn vắng mặt không rõ lý do, không có người đại diện tham gia phiên tòa. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn. Bà L đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến Tòa án để trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng nhưng bà L vắng mặt không rõ lý do cũng như không cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án. Như vậy, bà L đã từ bỏ các quyền được pháp luật quy định. Tòa án căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án để giải quyết theo quy định của pháp luật.

[3] Về yêu cầu của nguyên đơn:

Căn cứ vào Giấy đăng ký mở và sử dụng tài khoản thanh toán, thẻ ghi nợ, dịch vụ ngân hàng điện tử và vay vốn số: 20160723 - 101066 - 0857 lập ngày 15/7/2016 được ký giữa bà Trần Thị Bích L và Ngân hàng; căn cứ vào Bảng liệt kê lịch sử thanh toán của nguyên đơn, có cơ sở để xác định bà L đã vay của Ngân hàng số tiền là 21.000.000 đồng, lãi suất 42%/năm, lãi quá hạn bằng 150% lãi trong hạn. Ngân hàng đã giải ngân số tiền vay cho bà L vào ngày 23/7/2016. Trong quá trình thực hiện hợp đồng b à L đã thanh toán cho Ngân hàng được 03 kỳ với tổng số tiền là 4.020.575 đồng, trong đó trả nợ gốc là 1.752.282 đồng và trả tiền lãi là 2.268.293 đồng. Từ ngày 04/11/2016 đến nay bà L không thanh toán thêm bất kỳ khoản tiền nào cho Ngân hàng. Vì vậy từ ngày 23/11/2016, Ngân hàng đã chuyển khoản nợ của bà L sang nợ quá hạn theo quy định trong Bộ Điều khoản và điều kiện về vay tiêu dùng, vay kinh doanh cá nhân, mở và sử dụng tài khoản thanh toán, thẻ ghi nợ và dịch vụ ngân hàng điện tử được thỏa thuận giữa bà L và Ngân hàng. Do bà L vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên Ngân hàng khởi kiện yêu cầu bà L thanh toán khoản tiền nợ gốc và tiền lãi của Hợp đồng tín dụng là có căn cứ. Tính đến ngày 05/11/2019, bà L còn nợ Ngân hàng số tiền là 56.184.765 đồng, trong đó, nợ gốc là 19.247.718 đồng, nợ lãi trong hạn và lãi quá hạn là 36.937.047 đồng.

Trong suốt quá trình tố tụng giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho bà Trần Thị Bích L nhưng bà L không đến Tòa án để giải quyết vụ kiện, không giao nộp bất cứ tài liệu, chứng cứ nào để bảo vệ quyền lợi của mình, cũng như không có bất cứ sự phản đối nào đối với yêu cầu của nguyên đơn nên Hội đồng xét xử xét thấy không có căn cứ và không có cơ sở để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà L. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ vào tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn giao nộp và tài liệu, chứng cứ do Toà án thu thập để chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở buộc bà Trần Thị Bích L có nghĩa vụ thanh toán cho Ngân hàng số tiền của khoản nợ tính đến ngày 05/11/2019 tổng cộng là 56.184.765 đồng (Năm mươi sáu triệu một trăm tám mươi bốn nghìn bảy trăm sáu mươi lăm đồng), trong đó, nợ gốc là 19.247.718 đồng, nợ lãi trong hạn và lãi quá hạn là 36.937.047 đồng. Bà L còn phải trả tiền lãi tiếp tục phát sinh kể từ ngày 06/11/2019 cho đến khi bà L thanh toán xong toàn bộ khoản nợ theo mức lãi suất mà bà L đã thỏa thuận với Ngân hàng.

Ngân hàng Thương mại Cổ phần V là tổ chức tín dụng có chức năng kinh doanh tiền tệ. Việc bị đơn chậm thanh toán nợ như trên gây ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn. Do đó yêu cầu của nguyên đơn về việc buộc bà Trần Thị Bích L phải thanh toán toàn bộ khoản nợ trên một lần sau khi bản án có hiệu lực pháp luật là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật nên được chấp nhận.

[4] Về án phí dân sự sơ thẩm: Ngân hàng không phải chịu án phí và được hoàn trả tiền tạm ứng án phí. Bà Trần Thị Bích L phải chịu án phí trên số tiền phải thanh toán cho Ngân hàng theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 186, khoản 2 Điều 227, Điều 244, 271, 273, 278, 280 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào Điều 471, Điều 474 Bộ luật dân sự 2005;

Căn cứ vào Điều 91 và Điều 95 của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010; Căn cứ vào Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao;

Căn cứ vào Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng Thương mại Cổ phần V về việc yêu cầu bà Trần Thị Bích L trả nợ.

2. Buộc bà Trần Thị Bích L có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần V số tiền còn nợ tính đến ngày 05/11/2019 là 56.184.765 đồng (Năm mươi sáu triệu một trăm tám mươi bốn nghìn bảy trăm sáu mươi lăm đồng), trong đó nợ gốc là 19.247.718 đồng, nợ lãi trong hạn và lãi quá hạn là 36.973.047 đồng. Trả một lần sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm, bà Trần Thị Bích L còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà bà L phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.

3. Các quyền và nghĩa vụ thi hành án của các đương sự được thực hiện tại cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm:

Bà Trần Thị Bích L phải chịu án phí là 2.809.238 đồng (Hai triệu tám trăm lẻ chín nghìn hai trăm ba mươi tám đồng).

Hoàn lại cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần V số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 1.256.973 đồng (Một triệu hai trăm năm mươi sáu nghìn chín trăm bảy mươi ba đồng) theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2016/0010330 ngày 02 tháng 7 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh.

5. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

6. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

214
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 484/2019/DS-ST ngày 05/11/2019 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:484/2019/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 11 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 05/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về