Bản án 483/2018/HNGĐ-ST ngày 18/10/2018 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN C, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 483/2018/HNGĐ-ST NGÀY 18/10/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 18 tháng 10 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện C xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 69/2018/TLST-HNGĐ ngày 27 tháng 02 năm2018 về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩmsố: 187/2018/QĐXXST–HNGĐ ngày 13 tháng 9 năm 2018, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Trần Thị Y, sinh naêm 1971 (có mặt). Địa chỉ cư trú: Tổ 05, ấp B1, xã Bình Mỹ, huyện C, tỉnh An G.

- Bị đơn: Ông Nguyễn Thanh G, sinh năm 1974 (vắng mặt). Địa chỉ cư trú: Tổ 05, ấp B1, xã Bình Mỹ, huyện C, tỉnh An G.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Lê Tấn C, sinh năm 1982 (có mặt).

Địa chỉ cư trú: Số 109/5 Nguyễn Đình Chiểu, khóm 4, phường C A, thành phố CB, tỉnh An G.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 24 tháng 01 năm 2018 và trong quá trình hòa giải, xét xử, nguyên đơn bà Trần Thị Y trình bày:

Về hôn nhân: Vào năm 1998, bà và ông G quen biết nhau, tìm hiểu và yêu thương nhau, sau đó tiến tới hôn nhân, có tổ chức lễ cưới, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Bình Mỹ, thời gian đầu chung sống hạnh phúc, nhưng dần về sau phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, thường xuyên cãi vã, ông G đã có vợ khác từ năm 2006. Vợ chồng đã ly thân hơn 11 năm. Nay tình cảm không còn bà yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Nguyễn Thanh G.

Về con chung: Có 04 con chung tên Nguyễn Thị Mỹ Linh, đã trưởng thành và có khả năng lao động nên không yêu cầu Tòa án giải quyết; Nguyễn Hoài Phong, sinh năm 2002, Nguyễn Minh Phú, sinh năm 2003 và Nguyễn Thị Mỹ Loan, sinh năm 2005. Hiện các cháu đang sống chung với bà, khi ly hôn bà yêu cầu được nuôi 03 cháu nhỏ, không yêu cầu ông G cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có.

Tại tờ tự khai ngày 15/5/2015 bị đơn ông Nguyễn Thanh G trình bày:

Về hôn nhân: Năm 1998 ông và bà Y chung sống với nhau, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Bình Mỹ, thời gian đầu chung sống hạnh phúc, nhưng dần về sau phát sinh mâu thuẫn, hiện nay mâu thuẫn đã trầm trọng, bà Y yêu cầu ly hôn, ông đồng ý.

Về con chung: Vợ chồng có 04 người con như bà Y trình bày, đồng ý giao03 cháu nhỏ cho bà Y nuôi dưỡng và ông không cấp dưỡng nuôi con.

Về nợ chung: Ông có nợ ông Lê Tấn C 532.630.000 đồng tiền mua bò và tiền vay 150.000.000 đồng. Ông đồng ý nhận trả số tiền này, việc mua bán, vay mượn là của riêng mình ông, không liên quan đến bà Y.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lê Tấn C trình bày: Ông là chủ trang trại bò tại thị trấn Tịnh Biên, huyện Tịnh Biên. Từ tháng 9 năm 2015 âm lịch ông Nguyễn Thanh G (tự là C) đến trang trại của ông mua bò nhiều lần, hình thức mua trước trả sau, khi hai bên mua bán có ghi sổ. Đến 13/7/2017 âm lịch thì ông G còn nợ tiền mua bò cũ là 412.230.000 đồng, mua thiếu thêm 10 con bò với số tiền 120.400.000 đồng. Tổng số tiền nợ mua bò là 532.630.000 đồng. Mục đích ông G mua bò để ông và vợ ông chăm sóc bán lại tìm lợi nhuận, phục vụ kinh tế gia đình.

Ngoài ra, ông G, bà Y còn vay nhiều lần cụ thể:

- Ngày 03/7/2017 vay 160.000.000 đồng, không có lãi, sau đó trả được 60.000.000 đồng, còn nợ lại 100.000.000 đồng.

- Ngày 09/7/2017 vay 50.000.000 đồng, không có thỏa thuận lãi.

Việc vay có làm biên nhận. Tổng cộng các khoản tiền vay là 210.000.000 đồng, trả được 60.000.000 đồng, còn nợ 150.000.000 đồng. Mục đích vay là để phục vụ sinh hoạt kinh tế gia đình. Ông đã nhiều lần yêu cầu vợ chồng ông G, bà Y trả số tiền này, nhưng ông G, bà Y chỉ hứa hẹn mà không thực hiện. Nay yêu cầu ông G, bà Y cùng liên đới trả tiền bò 532.630.000 đồng, vì bà Y nhiều lần đứng ra nhận bò và trả tiền mua bò. Đối với số tiền vay 150.000.000 đồng ông G vay cờ bạc bà Y không biết nên chỉ yêu cầu cá nhân ông G trả số tiền này. Tất cả chỉ yêu cầu vốn không yêu cầu tính lãi.

Tại phiên tòa:

Nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu xin được ly hôn với bị đơn ông G, yêu cầu được nuôi 02 cháu nhỏ, không yêu cầu ông G cấp dưỡng. Đối với nợ tiền mua bò 532.630.000 đồng của ông C, ông C yêu cầu bà phải liên đới chịu trách nhiệm cùng ông G thanh toán bà không đồng ý vì bà và ông G đã ly thân hơn 11 năm, bà và ông G làm ăn riêng, không ai biết việc làm ăn của ai. Việc nhận bò và trả tiền mua bò là do mỗi khi ông G không có ở nhà nhờ bà nhận bò và trả tiền giùm. Đồng thời, ông G đã nhận trách nhiệm trả nợ thuộc về ông G.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lê Tấn C: Tại phiên tòa sau khi nghe Hội đồng xét xử động viên ông đã xác định chỉ khởi kiện yêu cầu cá nhân ông G trả số tiền mua bò 532.630.000 đồng, trả 150.000.000 đồng tiền vay. Toàn bộ 02 khoản nợ này không yêu cầu tính lãi.

Tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án gồm: Giấy trích lục kết hôn (bản chính); Giấy khai sinh (bản sao) của Linh, Loan, Phú, Phong; Tờ tự khai của Phong, Phú, Loan; Phiếu gửi chứng cứ; Tờ tự khai của ông G; giấy nhận nợ 60.000.000 đồng ngày 16/6/2017 âm lịch; Giấy nhận nợ 160.000.000 đồng ngày24/6/2017 âm lịch; Giấy nhận nợ 50.000.000 đồng ngày 09/7/2017 âm lịch; Giấy nợ mua bò mới 120.400.000 đồng; Giấy nợ mua bò ngày 03/7/2017 âmlịch; Giấy nợ mua bò ngày 17/6/2017 âm lịch (photo).

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa và các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:

 [1] Về thủ tục tố tụng:

 [1.1] Tranh chấp giữa bà Trần Thị Y với ông Nguyễn Thanh G là về ly hôn; tranh chấp giữa ông Lê Tấn C với ông Nguyễn Thanh G và bà Trần Thị Y là về hợp đồng mua bán, hợp đồng vay tài sản, bị đơn có địa chỉ thường trú tại địa bàn huyện C, nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện C tại khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[1.2] Đối với bị đơn ông Nguyễn Thanh G đã được Tòa án tống đạt đầy đủ các văn bản tố tụng và được triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt (ông G có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt), nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là phù hợp quy định pháp luật tại khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

 [2] Về nội dung vụ án:

 [2.1] Về hôn nhân: Bà Y và ông G chung sống từ năm 1998, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Bình Mỹ ngày 25/10/2011, phù hợp với quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, nên là hôn nhân hợp pháp được pháp luật thừa nhận, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng trong thời kỳ hôn nhân. Bà Y khởi kiện yêu cầu được ly hôn ông G với lý do thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, nhưng dần về sau phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm vợ chồng thường xuyên cãi vã, ông G đã có vợ khác từ năm 2006 và đã có con riêng. Nay bà Y cho r ng tình cảm không còn, bà yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Nguyễn Thanh G.

Xét quan hệ hôn nhân của bà Y và ông G, Hội đồng xét xử nhận định: Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã triệu tập anh G hòa giải nhiều lần nh m mục đích động viên, hòa giải đoàn tụ, hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng anh G không có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án, xem như anh G đã từ bỏ quyền của mình, ông G đã có vợ khác. Điều này chứng minh anh G hoàn toàn không có ý định hàn gắn quan hệ vợ chồng. Tuy không có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án nhưng ông G có trình bày b ng văn bản ông đồng ý ly hôn với bà Y. Thể hiện bà Y và ông G không còn thương yêu, quan tâm, chăm sóc lẫn nhau làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, ông bà đã không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của vợ và chồng theo Điều 19 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, nên bà Y yêu cầu ly hôn với anh G là có cơ sở. Căn cứ khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện ly hôn của bà Y đối với ông G.

 [2.2] Về con chung: Bà Y và ông G có 04 con chung tên Nguyễn Thị Mỹ Linh, đã trưởng thành và có khả năng lao động, không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét; Nguyễn Hoài Phong, sinh năm 2002, Nguyễn Minh Phú, sinh năm 2003 và Nguyễn Thị Mỹ Loan, sinh năm 2005. Hiện các cháu đang sống chung với bà Y, bà Y có yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng 03 cháu Phong, Phú, Loan. Ngày 20/5/2018, 03 cháu có bản tự khai trình bày nguyện vọng được sống chung với mẹ. Xét yêu cầu của bà Y và nguyên vọng của 03 cháu, Hội đồng xét xử xét thấy để ổn định, tinh thần, sinh sống học tập của các cháu Hội đồng xét xử chấp nhận giao 03 cháu Phong, Phú, Loan cho bà Y trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp quy định pháp luật tại khoản 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

Ông G có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con. Bà Y không yêu cầu ông G cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xửkhông xem xét.

 [2.3] Về tài sản chung: Không có nên Hội đồng xét xử không xem xét giảiquyết.

 [3] Về yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông LêTấn C:

 [3.1] Xét yêu cầu đòi số tiền mua bò 532.630.000 đồng và vay 150.000.000 đồng, vay không lãi, tại phiên tòa ông C xác nhận chỉ yêu cầu riêng cá nhân ông G có trách nhiệm trả cho ông số tiền này do ông G nhận bò và tiền. Hội đồng xét xử xét thấy việc vay nợ và mua bán các bên không lập thành hợp đồng nhưng có biên nhận nợ do ông G (ký tên Vũ), ông G cũng thừa nhận nợ, nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu độc lập của ông C về số tiền vay, tiền mua bò, buộc ông G có nghĩa vụ trả cho ông C số tiền mua bò 532.630.000 đồng và tiền vay 150.000.000 đồng là phù hợp quy định pháp luật tại Điều 430, Điều 440, Điều 463, Điều 466 Bộ luật Dân sự năm 2015. Do ông C không yêu cầu ông G trả lãi đối với số tiền nợ nên Hội đồng xét xử không xem xét.

 [4] Về án phí:

 [4.1] Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm:

Bà Trần Thị Y phải chịu 300.000 đồng tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0017683 ngày 27 tháng 02 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C.

 [4.2] Án phí dân sự sơ thẩm:

Do yêu cầu được chấp nhận nên ông C không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm được hoàn lại tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Ông Nguyễn Thanh G phải chịu 31.305.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 9, Điều 19, Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

 Căn cứ Điều 430, Điều 440, Điều 463, Điều 466, khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự 2015; Căn cứ khoản 6 Điều 26, khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án:

Xử

1. Về quan hệ hôn nhân, nuôi con chung, tài sản chung:

1.1. Về hôn nhân: Bà Trần Thị Y được ly hôn với ông Nguyễn Thanh G.

1.2. Về nuôi con chung: Bà Y và ông G có 04 con chung tên Nguyễn Thị Mỹ Linh, đã trưởng thành và có khả năng lao động, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét; Giao Nguyễn Hoài Phong, sinh năm2002, Nguyễn Minh Phú, sinh năm 2003 và Nguyễn Thị Mỹ Loan, sinh năm 2005 cho bà Trần Thị Y trực tiếp nuôi dưỡng. Ông G có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

1.3. Về cấp dưỡng nuôi con: Bà Y không yêu cầu ông G cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

1.4. Về tài sản chung: Không có nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

2. Về yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Buộc ông Nguyễn Thanh G có trách nhiệm trả cho ông Lê Tấn C số tiền nợ mua bò 532.630.000 đồng và tiền vay 150.000.000 đồng, tổng cộng là682.630.000 đồng (Sáu trăm tám mươi hai triệu sáu trăm ba mươi nghìn đồng).

Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

3. Về án phí:

3.1. Bà Trần Thị Y phải chịu 300.000 đồng tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0017683 ngày 27 tháng 02 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C.

3.2. Ông Nguyễn Thanh G phải chịu 31.305.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

3.3. Ông Lê Tấn C được nhận lại 15.700.000 đồng tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm theo biên lai thu số 0002470 ngày 16/4/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C.

4. Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 483/2018/HNGĐ-ST ngày 18/10/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:483/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về