Bản án 48/2021/HNGĐ-ST ngày 01/07/2021 về ly hôn và tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẦN ĐỀ, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 48/2021/HNGĐ-ST NGÀY 01/07/2021 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Trong ngày 01/7/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm, công khai vụ án thụ lý số 106/2021/TLST-HNGĐ ngày 07/4/2021 về việc “Ly hôn và tranh chấp nuôi con khi ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 48/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 26/5/2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Thạch Thị N; Sinh năm 1994; Địa chỉ: Số A, ấp B, xã C, huyện Đ, tỉnh Sóc Trăng (có đơn xin vắng mặt).

- Bị đơn: Ông Sơn Minh T; Sinh năm 1991; Địa chỉ: Ấp E, xã Ê, huyện Đ, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện do bà Thạch Thị N lập ngày 15/3/2021 cũng như trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Thạch Thị N trình bày như sau: Vào năm 2016 bà và ông Sơn Minh T kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã C, huyện Đ, tỉnh Sóc Trăng và được cấp giấy chứng kết hôn ngày 02/3/2016. Sau khi kết hôn vợ chồng sống với nhau rất hạnh phúc được một thời gian ngắn, khi bà mang thai được 03 tháng thì ông T trở về nhà cha mẹ ruột sống, không quan tâm đến cuộc sống của bà và con sau này. Cho nên bà và ông T đã ly thân từ tháng 6 năm 2016 cho đến nay và bà cũng không còn tình cảm với ông T.

Trong thời gian chung sống bà và ông Sơn Minh T có 01 đứa con chung tên Sơn Minh N1, sinh ngày 23/12/2016, hiện nay cháu N1 đang sống với bà; Về tài sản chung và nợ chung không có.

Nay bà Thạch Thị N yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn với ông Sơn Minh T; Về con chung, bà N yêu cầu được nuôi dưỡng con chung là cháu Sơn Minh N1, sinh ngày 23/12/2016 đến khi trưởng thành và không yêu cầu ông T phải cấp dưỡng nuôi con; Về tài sản và nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Đối với bị đơn ông Sơn Minh T, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho ông Sơn Minh T nhưng ông T không có văn bản gửi cho Tòa án để trình bày ý kiến về yêu cầu khởi kiện của bà Thạch Thị N và không đến tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và phiên hòa giải cũng như tham gia phiên tòa theo triệu tập.

* Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trần Đề xác định: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng pháp luật tố tụng dân sự. Từ khi Tòa án thụ lý vụ án đến tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, bị đơn không thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[2] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Theo đơn khởi kiện lập ngày 15/3/2021, bà Thạch Thị N yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với ông Sơn Minh T có nơi cư trú tại Ấp E, xã Ê, huyện Đ, tỉnh Sóc Trăng. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử xác định việc Tòa án nhân dân huyện Trần Đề thụ lý, giải quyết vụ án theo trình tự sơ thẩm là đúng quy định của pháp luật về thẩm quyền giải quyết vụ án.

[3] Về xét xử vắng mặt đương sự: Tại phiên tòa, bị đơn Sơn Minh T vắng mặt lần thứ hai không có lý do khi đã được Tòa án triệu tập hợp lệ và nguyên đơn Thạch Thị N có đơn xin xét xử vắng mặt, Do đó, căn cứ vào khoản 1 Điều 227; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1, 3 Điều 228 và khoản 3 Điều 235 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử vụ án.

[4] Xét yêu cầu của nguyên đơn bà Thạch Thị N:

[5] Về quan hệ hôn nhân: Bà Thạch Thị N và ông Sơn Minh T tự nguyện kết hôn với nhau có đi đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Ê, huyện Đ, tỉnh Sóc Trăng và được cấp giấy chứng kết hôn ngày 02/3/2016 nên quan hệ hôn nhân giữa bà Thạch Thị N và ông Sơn Minh T là hợp pháp. Nhưng sau khi kết hôn vợ chồng chung sống được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân là do ông T không quan tâm đến vợ con cho nên đến tháng 6 năm 2016 thì vợ chồng sống ly thân đến nay. Trong thời gian ly thân, vợ chồng cũng không thể hàn gắn tình cảm vợ chồng và bà Thạch Thị N làm đơn khởi kiện để xin ly hôn tại Tòa án. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tổ chức hòa giải để động viên vợ chồng bà N, ông T đoàn tụ với nhau, tuy nhiên phía ông T vắng mặt nên Tòa án không tiến hành hòa giải được. Như vậy, tình trạng hôn nhân của vợ chồng bà Thạch Thị N và ông Sơn Minh T đã trở nên trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy, xét việc bà N xin ly hôn là có căn cứ và phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Về con chung: Trong thời gian sống chung bà Thạch Thị N và ông Sơn Minh T có 01 đứa con chung tên Sơn Minh N1, sinh ngày 23/12/2016 hiện nay con chung đang sống với bà N và bà N yêu cầu tiếp tục được nuôi con đến trưởng thành. Xét yêu cầu của bà N là phù hợp với quy định tại Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 về điều kiện trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chưa thành niên của Năm. Vì vậy, Hội đồng xét xử giao cháu Sơn Minh N1, sinh ngày 23/12/2016 cho bà Thạch Thị N trực tiếp nuôi dưỡng đến khi thành niên.

[6] Về cấp dưỡng nuôi con: Bà Thạch Thị N xác định hiện nay có điều kiện kinh tế ổn định và đủ khả năng để nuôi dưỡng cháu Sơn Minh N1, sinh ngày 23/12/2016 nên không yêu cầu ông Sơn Minh T cấp dưỡng cho con chung. Vì vậy, Hội đồng xét xử không buộc ông Sơn Minh T cấp dưỡng nuôi con chung

[7] Tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung và nợ chung, nên không đặt ra xem xét.

[8] Về án phí: Căn cứ vào khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bà Thạch Thị N chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với vụ án ly hôn là 300.000 đồng. Ông Sơn Minh T không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

[9] Về quyền kháng cáo bản án: Căn cứ vào Điều 271 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, các đương sự có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày Tòa án tống đạt hợp lệ.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

* Căn cứ: khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

* Tuyên xử:

- Về hôn nhân: Bà Thạch Thị N được ly hôn với ông Sơn Minh T.

- Về con chung: Giao cho bà Thạch Thị N trực tiếp nuôi dưỡng con chung của bà Thạch Thị N và ông Sơn Minh T là cháu Sơn Minh N1, sinh ngày 23/12/2016 đến khi thành niên (hiện nay cháu N1 đang sống chung với bà N).

Ông Sơn Minh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom cháu N1 mà không ai được cản trở. Ông Sơn Minh T không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu N1 của bà Thạch Thị N.

Về cấp dưỡng nuôi con: Bà Thạch Thị N không yêu cầu cấp dưỡng nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

- Về tài sản chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung, nên không đặt ra xem xét.

- Về nợ chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết về nợ chung, nên không đặt ra xem xét.

- Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Thạch Thị N chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với vụ án ly hôn là 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng), nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0007821, ngày 05/4/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng, bà Thạch Thị N đã thực hiện xong. Ông Sơn Minh T không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo bản án: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày, tính từ ngày nhận được bản án hoặc ngày Tòa án tống đạt hợp lệ bản án cho các đương sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

274
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 48/2021/HNGĐ-ST ngày 01/07/2021 về ly hôn và tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:48/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trần Đề - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:01/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về