Bản án 48/2021/HC-ST ngày 29/03/2021 về khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ H

BẢN ÁN 48/2021/HC-ST NGÀY 29/03/2021 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI

Trong các ngày 26, 29 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố H , xét xử sơ thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số 61/2020/HCST ngày 31/3/2020 về việc khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 38/2020/QĐXXST-HC ngày 05/3/2021, giữa các đương sự:

1. Người khởi kiện: Ông Nguyễn Văn L , sinh năm 1941. Địa chỉ: TDP Yên N , phường L , quận B , thành phố H .

Người đại diện theo ủy quyền:

- Ông Nguyễn Phan H, sinh năm 1951. Địa chỉ: Tổ dân phố trung 6, phường Tây Tựu, quận B , thành phố H ;

2. Người bị kiện:

2.1. Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố H . Địa chỉ trụ sở: 79 phố Đ, phường L, quận H, thành phố H .

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Trọng Đ, chức vụ: Phó Chủ tịch UBND thành phố H .

2.2. Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận B , thành phố H .

2.3. Ủy ban nhân dân quận B , thành phố H Địa chỉ trụ sở: Phố P, phường P, quận B , thành phố H .

Người đại diện theo pháp luật: Ông Lưu Ngọc H, chức vụ: Chủ tịch UBND quận B .

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp:

- Bà Phùng Thị Kim T – chức vụ: Phó Giám đốc Trung tâm phát triển quỹ đất quận B .

3. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

3.1. Ủy ban nhân dân phường L , quận B , thành phố H . Địa chỉ trụ sở: Phường L , quận B , thành phố H .

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Đoàn Mạnh H, chức vụ: Phó Chủ tịch UBND phường L .

3.2. Hợp tác xã Yên N . Địa chỉ trụ sở: Số 101/1 đường L , TDP Yên N 3, phường L , quận B , thành phố H .

Đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Văn C, Giám đốc HTX Yên N .

3.3. Chị Nguyễn Thị Tân, sinh năm 1972. Trú tại: Tân P, phường, quận B , thành phố H.

3.4. Anh Nguyễn Thành L, sinh năm 1976;

3.5. Chị Lê Thị H, sinh năm 1976;

3.6. Ông Nguyễn Văn L, sinh năm 1978;

3.7. Bà Nguyễn Thị V, sinh năm 1978.

Cùng trú tại: TDP Yên N 1, phường L , quận B , Tp H .

3.8. Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1961. Trú tại: Phường P, quận T, thành phố H . (Tại phiên tòa có mặt: ông Nguyễn Phan H).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Trong Đơn khởi kiện và các bản khai tại Tòa án, người khởi kiện ông Nguyễn Văn L trình bày:

Năm 1981, gia đình ông được HTX Yên N giao diện tích đất nông nghiệp (bao gồm đất cấy lúa, đất trồng màu khu bãi và khu sống cao) để sản xuất theo mô hình kinh tế hộ (có xác nhận của HTX Yên N ) với diện tích: 3.721 m2. Năm 2001, gia đình ông đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích 2.062m2, bao gồm:

- Thửa đất số 215, tờ bản đồ số 16, diện tích: 413 m2 - Thửa đất số 568(1), tờ bản đồ số 16, diện tích: 614 m2 - Thửa đất số 343, tờ bản đồ số 16 có diện tích: 1015 m2 - Thửa đất số 422, tờ bản đồ số 16 có diện tích: 1015 m2 - Thửa đất số 221, tờ bản đồ số 15 có diện tích: 1015 m2 Diện tích còn lại 1.659 m2 đất nông nghiệp cũng được giao từ năm 1981 nhưng chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Diện tích đất này gia đình ông sử dụng ổn định từ lúc nhận giao khoán đến nay và đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thuế với Nhà nước. Đất này là đất không đưa vào cân đối để giao theo Nghị định 64.

Ngày 11/4/2016, UBND quận B ra Quyết định số 1372/QĐ- UBND thu hồi 852 m2 đất nông nghiệp thuộc thửa đất 568, tờ bản đồ số 16 của gia đình ông để thực hiện dự án Khu công nghệ cao sinh học H trên địa bàn phường L . Cùng ngày, gia đình ông nhận được Quyết định số 1443/QĐ-UBND về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ chi tiết cho gia đình ông. Cụ thể:

- Bồi thường, hỗ trợ về đất 852m2 : 171.763.200 đồng - Bồi thường, hỗ trợ về tài sản : 128.342.620 đồng.

Tổng số tiền bồi thường, hỗ trợ theo phương án bồi thường là: 300.105.820 đồng. Số tiền này gia đình ông đến nay chưa nhận.

Không đồng ý với phương án bồi thường, hỗ trợ nên ông đã làm đơn khiếu nại gửi UBND quận B , thành phố H .

Ngày 29/7/2016, gia đình ông nhận được Quyết định số 3063/QĐ-UBND của Chủ tịch UBND quận B về việc giải quyết đơn khiếu nại có nội dung giữ nguyên Quyết định số 1372/QĐ-UBND ngày 11/4/2016 và Quyết định số 1443/QĐ-UBND ngày 11/4/2016 về việc thu hồi đất và phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ chi tiết cho gia đình ông.

Sau khi nhận được Quyết định giải quyết khiếu nại số 3063/QĐ-UBND ngày 29/7/2016 của Chủ tịch UBND quận B , gia đình ông đã làm đơn khiếu nại gửi Chủ tịch UBND thành phố H .

Ngày 05/7/2019, sau gần 3 năm, gia đình ông mới nhận được Quyết định số 6880/QĐ-UBND đề ngày 15/12/2016 của Chủ tịch UBND thành phố H về việc giải quyết khiếu nại của gia đình ông có nội dung đồng ý Quyết định 3063/QĐ-UBND ngày 29/7/2016 của Chủ tịch UBND quận B . Như vậy, việc giải quyết khiếu nại của Chủ tịch UBND thành phố H là không đúng với văn bản số 3599/UBND- ĐCNN ngày 09/6/2008 của UBND thành phố H .

Kết quả xác minh của Thanh tra thành phố: “Diện tích 852m2 không nằm trong hạn mức giao đất nông nghiệp theo nghị định số 64/CP của Chính phủ cho hộ gia đình ông L , thực tế hộ gia đình ông L đã được Hợp tác xã nông nghiệp Yên N giao khoán từ khoán 100, khoán 10 và sử dụng ổn định đến thời điểm Nhà nước thu hồi thực hiện Dự án Khu công nghệ cao sinh học H . Chính quyền địa phương không sử dụng bất kỳ biện pháp gì (thông báo, thu hồi lại, ký hợp đồng thuê thầu…) để quản lý đối với phần diện tích này.” Như vậy, nguồn gốc sử dụng đất ông trình bày ở trên phù hợp với kết quả xác minh của thanh tra thành phố H và các quy định pháp luật, gia đình ông đủ điều kiện được hỗ trợ, đào tạo chuyển đổi nghề đối với diện tích 852m2 đất bị thu hồi.

Về tài sản trên đất (bể xây, giếng, nhà ni lông, hàng rào thép gai...): Đây đều là công trình xây dựng phục vụ sản xuất nông nghiệp không có văn bản cho phép của UBND phường L song được UBND phường L tạo điều kiện cho xây dựng mà không xử lý. Do đó, cần áp dụng khoản 2 điều 12 Quyết định số 10/2017 của UBND thành phố H để được bồi thường về công trình bằng 100% đơn giá xây dựng nhằm đảm bảo quyền lợi cho gia đình ông.

Về hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất: Gia đình ông bị thu hồi 852m2 trong tổng số 2.062m2 đất nông nghiệp được cấp Giấy chứng nhận, tỷ lệ thu hồi là 41,32%. Vậy, gia đình ông phải được hỗ trợ ổn định đời sống theo khoản 3 điều 19 nghị định 47/2014/NĐ-CP.

Từ những căn cứ pháp luật nêu trên, gia đình ông phải được bồi thường, hỗ trợ bổ sung như sau:

- Hỗ trợ, đào tạo chuyển đổi nghề: 852m2 x 201.600 đồng x 5 = 858.816.000đồng;

- Hỗ trợ ổn định đời sống, sản xuất: 15.200 đồng x 30kg x 6 tháng x 4 khẩu = 10.944.000 đồng - Tài sản trên đất:

Gạch xây: 1,95 x 1.315.288 đồng x 20% = 512.962 đồng Khối lượng trát: 17,88 x 47.291 đồng x 20% = 166.843 đồng Giếng khoan: 2 x 3.209.000 đồng x 20% = 1.283.600 đồng Nhà lưới ni lông, khung tre: 852 x 10.000 đồng x 90% = 7.668.000 đồng Hàng rào lưới thép B40: 302 x 255.000 đồng x 90% = 69.309.000 đồng Tổng cộng là: 948.700.405 đồng.

Ông đề nghị Tòa án nhân dân thành phố H : Căn cứ điểm d khoản 1 điều 19, khoản 1 điều 20 nghị định 47/2014/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định 01/2017/NĐ-CP; khoản 2 điều 12 quyết định 10/2017 của UBND thành phố H , hủy:

+ Quyết định số 1443/QĐ-UBND ngày 11/4/2016 của UBND quận B về phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ chi tiết.

+ Quyết định số 3063/QĐ-UBND ngày 29/7/2016 của Chủ tịch UBND quận B về việc giải quyết đơn khiếu nại lần đầu.

+ Quyết định số 6880/QĐ-UBND ngày 15/12/2016 của Chủ tịch UBND thành phố H về việc giải quyết khiếu nại lần hai.

+ Yêu cầu UBND quận B ra quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ bổ sung cho gia đìn ông số tiền 948.700.405 đồng.

* Người bị kiện:

- Chủ tịch và UBND quận B trình bày: UBND xã L trước đây thực hiện việc giao đất nông nghiệp theo Nghị định 64/CP của Chính phủ theo hình thức bình quân nhân khẩu trên cơ sở hiện trạng sử dụng đất của các hộ sử dụng từ khoán 10, khoán 100 và cân đối diện tích hộ thừa cho hộ thiếu. Nhưng khi triển khai việc giao đất nông nghiệp đã không thực hiện được việc cân đối giữa các hộ sử dụng thừa và thiếu so với phương án cho các hộ gia đình, cá nhân. Dẫn đến hiện nay tại phường L vẫn đang sử dụng tồn tại các hộ dân sử dụng thừa và các hộ dân sử dụng thiếu so với phương án.

Diện tích đất thuộc khu xứ đồng Sống Cao không được thống kê vào hiện trạng sử dụng đất của hộ gia đình ông Nguyễn Văn L tại Phương án giao đất nông nghiệp chi tiết và được xác định là đất nông nghiệp không giao do UBND xã quản lý. Theo phương án giao đất nông nghiệp theo Nghị định 64/CP của UBND xã L (nay là UBND phường L ), hộ gia đình ông Nguyễn Văn L có 04 nhân khẩu, được giao 1.032m2 đất nông nghiệp, hộ gia đình hiện đang sử dụng 3.721m2 đất. Trên thực tế hộ gia đình ông L đã được cấp GCNQSD: 2.062 m2 đất nông nghiệp (gồm thửa 221, tờ bản đồ 15, diện tích 940m2 và thửa 215, tờ bản đồ 16, diện tích 413m2 và thửa 343 tờ bản đồ 16, diện tích 339m2; thửa 422 tờ bản đồ 16, diện tích 230m2 và thửa 568 (1) tờ bản đồ 16, diện tích 140m2), so với hạn mức nhân khẩu trong phương án giao đất thừa 1.030m2.

Hộ gia đình ông Nguyễn Văn L không thực hiện việc kê khai đề nghị giao đất, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích đất đang sử dụng tại Xứ đồng Sống Cao và cũng không có khiếu nại, ý kiến về việc giao đất của UBND xã L , UBND huyện Từ Liêm trước đây. Do Hội đồng giao đất nông nghiệp xã L không lập phương án giao đất tại khu xứ đồng Sống Cao và hộ gia đình ông Nguyễn Văn L không kê khai đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên UBND huyện Từ Liêm trước đây không xem xét việc giao đất, cấp GCN QSDĐ cho hộ gia đình ông Nguyễn Văn L đang sử dụng đất tại khu vực này, gia đình ông L vẫn sử dụng ổn định vào mục đích sản xuất nông nghiệp từ thời điểm khoán 10, khoán 100 đến nay và không có khiếu nại, ý kiến về việc giao đất của UBND xã L trước đây. UBND xã L , UBND huyện Từ Liêm trước đây không thực hiện việc thu hồi diện tích đất nông nghiệp không giao cho hộ gia đình ông Nguyễn Văn L tại khu xứ đồng Sống Cao để quản lý theo quy định và cũng không ký hợp đồng thuê đất đối với các hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất.

Diện tích 534m2 đất (thuộc thửa đất số 586, tờ bản đồ số 16, diện tích 258m2 và thửa 595, tờ bản đồ số 16, diện tích 276m2, bản đồ đo năm 1994 xã L (nay là phường L ) do hộ gia đình ông Nguyễn Văn L đang sử dụng bị thu hồi để thực hiện dự án Khu công nghệ cao sinh học là đất nông nghiệp không giao do UBND phường L quản lý (không thuộc diện tích đất nông nghiệp hộ gia đình được giao theo Nghị định 64/CP).

Việc thu hồi đất và lập phương án bồi thường, giải phóng mặt bằng đối với hộ gia đình ông Nguyễn Văn L : Ngày 06/5/2008, Tổ công tác GPMB dự án có Biên bản điều tra, xác minh về đất thu hồi và tài sản trên đất đã ghi nhận: Chủ sử dụng đất là UBND xã L , chủ tài sản là hộ gia đình ông Nguyễn Văn L đang sử dụng tài sản trên diện tích 852m2 đất thuộc thửa đất số 586, tờ bản đồ số 16 (bản đồ đo vẽ năm 1994 xã L nay là phường L ) có xác nhận về đất và tài sản trên đất nằm trong chỉ giới thu hồi đất phục vụ công tác giải phóng mặt bằng thực hiện dự án: Khu công nghệ cao sinh học H .

Ngày 04/5/2015, UBND phường L đã có xác nhận bổ sung về thời điểm sử dụng diện tích 852m2 đất thuộc thửa đất số 568, tờ bản đồ số 16 hộ gia đình ông L sử dụng trước ngày 01/7/2004. Ngày 04/6/2015, UBND phường L đã có xác nhận bổ sung về thời điểm xây dựng công trình trên đất đối với gia đình ông Nguyễn Văn L trước ngày 15/10/1993 và từ sau ngày 01/7/2004 đến trước 01/7/2014.

Ngày 11/4/2016, UBND quận B đã ban hành Quyết định số 1372/QĐ-UBND về việc thu hồi đất để thực hiện dự án Khu công nghệ cao sinh học H với nội dung: “Thu hồi 852m2 đất nông nghiệp không giao do UBND phường L quản lý (thuộc thửa đất số 568, tờ bản đồ 16 bản đồ đo năm 1994 phường L ), hiện hộ gia đình ông Nguyễn Văn L đang sử dụng trước ngày 01/7/2004”.

Ngày 11/4/2016, UBND quận B đã ban hành Quyết định số 1443/QĐ-UBND về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ đối với hộ gia đình ông Nguyễn Văn L tại dự án với nội dung bồi thường, hỗ trợ về đất, cây trồng, vật nuôi và các công trình trên đất. Tổng số tiền bồi thường, hỗ trợ là: 300.105.820 đồng, cụ thể:

- Bồi thường, hỗ trợ về đất: 171.763.200 đồng.

- Bồi thường, hỗ trợ về hoa màu: 111.936.000 đồng.

- Bồi thường, hỗ trợ công trình: 16.406.620 đồng.

UBND quận đã tổ chức chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ đối với hộ gia đình ông L . Tuy nhiên, hộ gia đình ông Nguyễn Văn L không phối hợp nhận tiền và bàn giao mặt bằng.

Về quá trình giải quyết khiếu nại: Ông Nguyễn Văn L khiếu nại Quyết định số 1372/QĐ-UBND ngày 11/4/2016 của UBND quận B về việc thu hồi đất tại phường L để thực hiện dự án khu công nghệ cao sinh học H và Quyết định số 1443/QĐ-UBND ngày 11/4/2016 của UBND quận B về phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ chi tiết đối với hộ gia đình ông Nguyễn Văn L tại dự án xây dựng khu công nghệ cao sinh học H với các nội dung đề nghị: được hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm bằng 05 lần giá đất nông nghiệp. Ngày 30/5/2016, UBND quận B ban hành Thông báo số 808/TB-UBND về việc thụ lý giải quyết khiếu nại của ông Nguyễn Văn L . Ngày 30/5/2016, Chủ tịch UBND quận B ban hành Quyết định số 2165/QĐ-UBND về việc xác minh nội dung khiếu nại. Theo phiếu xác nhận bổ sung ngày 04/6/2015 của UBND phường L , hộ gia đình ông Nguyễn Văn L xây dựng công trình trên diện tích đất bị thu hồi để phục vụ sản xuất nông nghiêp không có văn bản cho phép của UBND xã L ; Do đó, được hỗ trợ về công trình bằng 80% mức bồi thường đơn giá đối với công trình xây dựng trước ngày 15/10/1993 và hỗ trợ 10% đối với công trình xây dựng sau ngày 01/7/2004 đến trước ngày 01/7/2014 là đúng theo quy định tại khoản 1, khoản 3 Điều 14 Quyết định 23/2014/QĐ-UBND ngày 20/6/2014 và Quyết định số 02/2016/QĐ-UBND ngày 21/01/2016 của UBND thành phố H .

Tuy nhiên, ngày 27/6/2016, UBND phường L có văn bản số 205/UBND-ĐC đề nghị UBND Quận xem xét bồi thường, hỗ trợ phần công trình trên đất nông nghiệp cho các hộ gia đình. Như vậy, các công trình xây dựng của hộ gia đình ông Nguyễn Văn L phục vụ sản xuất nông nghiệp không có văn bản cho phép của UBND phường L song đã được UBND phường L tạo điều kiện cho xây dựng mà không xử lý. Do đó, cần xem xét áp dụng khoản 2 Điều 12 Quyết định 23/2014/QĐ- UBND ngày 20/6/2014 của UBND thành phố H để được bồi thường về công trình bằng 100% đơn giá xây dựng.

Ngày 21/7/2016, Thanh tra Quận đã có Báo cáo số 272/BC-TTr về việc báo cáo kết quả xác minh nội dung khiếu nại của ông Nguyễn Văn L .

Ngày 29/7/2016, Chủ tịch UBND quận B đã ban hành Quyết định số 3063/QĐ-UBND về việc giải quyết khiếu nại của ông Nguyễn Văn L .

Ông Nguyễn Văn L không đồng ý với nội dung Quyết định số 3063/QĐ- UBND ngày 29/7/2016 của Chủ tịch UBND quận B , thành phố H và tiếp tục có đơn khiếu nại lần 2 gửi Chủ tịch UBND thành phố H .

Ngày 15/12/2016, Chủ tịch UBND thành phố H đã ban hành Quyết định số 6880/QĐ-UBND về việc giải quyết khiếu nại của ông Nguyễn Văn L với nội dung đồng ý Quyết định số 3063/QĐ-UBND ngày 29/7/2016 của Chủ tịch UBND quận B về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Nguyễn Văn L .

Đến nay UBND quận B chưa ban hành Quyết định phê duyệt bổ sung phương án BTHT cho hộ gia đình ông Nguyễn Văn L theo Quyết định số 3063/QĐ-UBND ngày 29/7/2016 của Chủ tịch UBND quận B do dự án Xây dựng công nghệ cao sinh học chưa được gia hạn triển khai thực hiện dự án và chưa được ứng vốn nên chủ đầu tư chưa có cơ sở thực hiện.

Chủ tịch và UBND quận B giữ nguyên các quyết định hành chính và các văn bản hành chính đã ban hành đối với hộ gia đình ông Nguyễn Văn L khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án Xây dựng Khu công nghệ cao sinh học tại phường L , quận B .

Đề nghị Tòa án Nhân dân thành phố H bác đơn khởi kiện của ông Nguyễn Văn L và xin được vắng mặt.

- Chủ tịch UBND thành phố H trình bày: Sau khi kiểm tra, rà soát hồ sơ giải quyết khiếu nại của ông Nguyễn Văn L , chủ tịch UBND thành phố H khẳng định nội dung Quyết định 6880/QĐ-UBND ngày 15/12/2016 về giải quyết khiếu nại của ông Nguyễn Văn L là đúng quy định của pháp luật. Đến nay, chủ tịch UBND thành phố H không có ý kiến gì khác với quan điểm đã thể hiện tại quyết định nêu trên. Đề nghị Tòa án nhân dân thành phố H xem xét, giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật và xin được giải quyết vắng mặt.

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

- UBND phường L trình bày: Diện tích các hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng được HTX Yên N giao khoán từ năm 1981. Kể từ đó đến nay, các hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất ổn định, không tranh chấp, không lấn chiếm đất công. Mục đích sử dụng đất của các hộ gia đình, cá nhân tại thời điểm có quyết định thu hồi đất để thực hiện dự án Khu công nghệ cao sinh học H là đất sản xuất nông nghiệp trồng cây hàng năm (rau, hành, hoa hồng, hoa cúc, cau vua).

Đối với HTX Yên N giao đất cho các hộ gia đình, cá nhân tính theo bình quân nhân khẩu trong hộ là 258 m2/khẩu. Khi thực hiện việc giao đất theo Nghị định 64/CP của Chính phủ, diện tích đất của các hộ gia đình, cá nhân không được đưa vào trong phương án giao đất chi tiết để cân đối giao cho các hộ gia đình, cá nhân. Hiện trạng các hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất để trồng rau, hành, hoa hồng, hoa cúc và cau vua. Khi xác nhận nguồn gốc đất cho các hộ gia đình, cá nhân có đất nông nghiệp nằm trong chỉ giới GPMB dự án Khu công nghệ cao sinh học H , UBND phường L căn cứ vào hồ sơ địa chính lưu tại ƯBND phường (Bản đổ và sổ mục kê đất năm 1994, Phương án giao đất nông nghiệp theo Nghị định 64/CP của Chính phủ lập năm 1999 và hiện trạng các hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng). Trên địa bàn phường L có 03 hộ gia đình, cá nhân bị thu hồi đất nông nghiệp để thực hiện dự án Khu công nghệ cao sinh học H loại đất tương tự được hỗ trợ x 05 lần giá đất, gồm: Hộ ông Hoàng Văn M, hộ ông Nguyễn Thị B, Hộ ông Nguyễn Văn A (L).

Đề nghị Tòa án nhân dân thành phố H giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

- Hợp tác xã Yên N trình bày: Hộ gia đình ông Nguyễn Văn L được HTX Yên N giao đất sản xuất nông nghiệp bao gồm cả phần diện tích khu sống cao từ thời điểm khoán 100 năm 1981 theo Chỉ thị 100/CT/TW ngày 13/01/1981 của Ban Bí thư về việc cải tiến hình thức giao khoán mở rộng đến từng hộ gia đình cá nhân. Tại thời điểm giao đất không có biên bản giao bằng giấy mà giao bằng miệng trực tiếp tại hiện trường và quản lý theo phương án thu sản phẩm một năm hai vụ của hợp tác xã; tuy nhiên do thời gian lâu ngày lên phương án thời điểm đó bị mối mọt xông không còn lưu trữ được. Đến năm 1988, khi thực hiện hình thức khoán 10 theo Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị thì diện tích sản xuất của hộ ông Nguyễn Văn L vẫn không thay đổi mà chỉ thay đổi sản lượng giao khoán.

Năm 1999, khi thực hiện giao đất nông nghiệp theo nghị định 64-NĐ/CP của Chính phủ thì địa phương (hội đồng giao đất xã) chỉ lập phương án cân đối trên giấy tờ chứ không giũ ra giao lại trong đó chỉ cân đối đất lúa hai vụ còn đất trồng màu gồm khu Sống cao và đất bãi ngoài đê trung ương giữ nguyên không đưa vào cân đối. Chính vì vậy toàn bộ diện tích các hộ đang sử dụng gần như không có xáo trộn gì và hầu như người dân không quan tâm đến việc có được cấp giấy chứng nhận hay không vì họ vẫn sản xuất ổn định bình thường, vẫn giao nộp đầy đủ nghĩa vụ tài chính với HTX từ năm 1981 đến nay. Hộ ông Nguyễn Văn L có phần diện tích đất lúa thừa so với định mức nhân khẩu nhưng hội đồng gia đất xã cũng không có thực hiện việc rút ra hay làm hợp đồng thuê đất mà gia đình ông L vẫn cứ snar xuất ổn định bình thường.

Vì vậy, HTX Yên N xác nhận hộ ông Nguyễn Văn L vẫn sản xuất ổn định trên tổng diện tích được giao từ năm 1981 trong đó có phần diện tích khu sống cao thuộc vị trí thu hồi thực hiện dự án khu Công nghệ cao sinh học H . Thực hiện đóng, nộp đầy đủ nghĩa vụ tài chính với nhà nước và hợp tác xã. Đề nghị Tòa án xem xét theo đúng Luật đất đai hiện hành.

- Bà Nguyễn Thị T, anh Nguyễn Thành L, chị Lê Thị H, anh Nguyễn Văn L, bà Nguyễn Thị V trình bày: Nhất trí với yêu cầu khởi kiện, ý kiến trình bày của ông Nguyễn Văn L và xin được vắng mặt.

* Tại phiên tòa: Người đại diện theo ủy quyền của ông Nguyễn Văn L sau khi trình bày tranh luận đã đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện để đảm bảo quyền và lợi ích theo đúng quy định pháp luật cho hộ gia đình ông Nguyễn Văn L .

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H tại phiên tòa:

- Về tố tụng: Vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố H . Quá trình tham gia tố tụng của các đương sự và quá trình tiến hành tố tụng của Thẩm phán trong quá trình giải quyết vụ án, của Hội đồng xét xử tại phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của Luật Tố tụng hành chính.

- Về nội dung : Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điều 3, Điều 30, khoản 4 điều 32 Luật Tố tụng hành chính, Luật Đất Đai năm 2013, Luật Khiếu nại và các văn bản pháp luật có liên quan:

- Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn L Về án phí: Do đơn khởi kiện không được chấp nhận nên ông L phải chịu án phí HCST. Tuy nhiên, ông Nguyễn Văn L là người cao tuổi nên được miễn án phí trong trường hợp ông L có đơn xin miễn án phí.

Căn cứ các tài liệu, chứng cứ thu thập có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra công khai tại phiên tòa; căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của các đương sự và những người tham gia tố tụng khác.

 NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã thu thập có trong hồ sơ vụ án trên cơ sở thẩm tra, xem xét tại phiên tòa. Căn cứ vào kết quả tranh luận trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện lời khai của các đương sự, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử thấy:

[1] Về tố tụng: Đối tượng khởi kiện là các Quyết định số 1443/QĐ-UBND ngày 11/4/2016 của UBND quận B về phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ chi tiết; Quyết định số 3063/QĐ-UBND ngày 29/7/2016 của Chủ tịch UBND quận B về việc giải quyết đơn khiếu nại lần đầu và Quyết định số 6880/QĐ-UBND ngày 15/12/2016 của Chủ tịch UBND thành phố H về việc giải quyết khiếu nại lần hai đều là các quyết định hành chính được ban hành trong quá trình thực hiện thu hồi đất, giải phòng mặt bằng trong lĩnh vực quản lý đất đai, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 3 và Điều 30 Luật Tố tụng hành chính.

Về thời hiệu khởi kiện, Hội đồng xét xử thấy rằng: ngày 22/11/2019 ông Nguyễn Văn L nộp đơn khởi kiện tại Tòa án nhân dân thành phố H yêu cầu hủy Quyết định số 6880/QĐ-UBND ngày 15/12/2016 của Chủ tịch UBND thành phố H về việc giải quyết khiếu nại lần hai và sau đó ông Nguyễn Văn L tiếp tục bổ sung yêu cầu khởi kiện đề nghị hủy Quyết định số 1443/QĐ-UBND ngày 11/4/2016 của UBND quận B về phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ chi tiết; Quyết định số 3063/QĐ-UBND ngày 29/7/2016 của Chủ tịch UBND quận B về việc giải quyết đơn khiếu nại lần đầu. Theo ông L trình bày mặc dù ông nộp đơn khiếu nại lần 2 từ năm 2016 và được Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố H ban hành Quyết định số 6880/QĐ-UBND từ ngày 15/12/2016 về giải quyết khiếu nại lần hai, nhưng gia đình ông không nhận được Quyết định này. Đến ngày 5/7/2019, gia đình ông mới nhận được Quyết định số 6880 (có Biên bản bàn giao quyết định của Ban tiếp công dân thành phố H ) và ngày 22/11/2019 ông mới thực hiện được việc nộp đơn khởi kiện đến Tòa án. Trong quá trình giải quyết, Tòa án nhân dân thành phố H có yêu cầu Ủy ban nhân dân thành phố H cung cấp tài liệu chứng cứ về việc bàn giao Quyết định số 6880/QĐ-UBND ngày 15/12/2016 cho ông Nguyễn Văn L nhưng không được cung cấp. Như vậy, Hội đồng xét xử xác định ngày ông Nguyễn Văn L nhận được Quyết định số 6880/QĐ-UBND là ngày 05/7/2019 để tính thời hiệu khởi kiện và căn cứ điểm a khoản 3 Điều 116 Luật Tố tụng hành chính thì yêu cầu khởi kiện của ông L đảm bảo về thời hiệu.

Khi xét xét tính hợp pháp của các Quyết định bị khởi kiện, Hội đồng xét xử xem xét cả tính hợp pháp của Quyết định số 1372/QĐ-UBND ngày 11/4/2016 của Ủy ban nhân dân quận B về việc thu hồi đất của hộ gia đình ông Nguyễn Văn L để thực hiện dự án: Khu công nghệ cao sinh học H .

Người bị kiện là Chủ tịch UBND thành phố H , Chủ tịch và UBND quận B nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân thành phố H theo quy định tại khoản 3 Điều 32 Luật Tố tụng hành chính.

Tại phiên tòa, Người bị kiện là Chủ tịch UBND thành phố H , Chủ tịch và UBND quận B , người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là UBND phường L , Hợp tác xã Yên N và những người liên quan khác có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 156 và khoản 1 Điều 158 Luật Tố tụng hành chính, Toà án vẫn tiến hành xét xử.

[2] Xét tính hợp pháp của các quyết định hành chính:

[2.1] Về thẩm quyền, trình tự, thủ tục ban hành và tính hợp pháp của các quyết định hành chính bị khiếu kiện:

Ủy ban nhân dân Quận B ban hành các Quyết định số 1372/QĐ-UBND ngày 11/4/2016 của Ủy ban nhân dân quận B về việc thu hồi đất của hộ gia đình ông Nguyễn Văn L để thực hiện dự án: Khu công nghệ cao sinh học H và Quyết định số 1443/QĐ-UBND ngày 11/4/2016 về phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ chi tiết là đúng pháp luật về thẩm quyền, trình tự, thủ tục ban hành theo quy định tại Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015; Luật đất đai năm 2013 và Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính Phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật đất đai.

Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận B ban hành Quyết định số 3063/QĐ-UBND ngày 29/7/2016 của Chủ tịch UBND quận B về việc giải quyết đơn khiếu nại lần đầu và Chủ tịch UBND thành phố H ban hành Quyết định số 6880/QĐ-UBND ngày 15/12/2016 về việc giải quyết khiếu nại lần hai đối với khiếu nại của ông Nguyễn Văn L là đúng pháp luật về thẩm quyền, trình tự, thủ tục ban hành theo quy định tại Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015; Luật Khiếu nại năm 2011; Nghị định số 75/2012/NĐ-CP ngày 03/10/2012 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Khiếu nại.

[2.2] Về các nội dung của các quyết định hành chính bị khiếu kiện:

Diện tích 852 m2 thửa đất số 568, tờ bản đồ số 16, bản đồ năm 1994, hộ gia đình ông Nguyễn Văn L sử dụng bị thu hồi để thực hiện dự án Khu công nghệ cao sinh học H có nguồn gốc là đất nông nghiệp, hộ gia đình ông Nguyễn Văn L sử dụng từ khoán 100, khoán 10, nhưng không nằm trong hạn mức giao đất nông nghiệp theo Nghị định số 64/CP của Chính phủ cho hộ gia đình ông L .

Theo phương án chi tiết giao đất nông nghiệp theo Nghị định số 64/NĐ- CP cho hộ gia đình ông Nguyễn Văn L lưu tại UBND phường L thể hiện: số nhân khẩu được giao: 4 khẩu, diện tích được giao: 2.062m2 (bình quân 516m2/khẩu) và đã được UBND huyện Từ Liêm cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp.

Trên thực tế, ngoài diện tích đất nông nghiệp được giao theo Nghị định số 64/CP nêu trên, hộ gia đình ông L còn sử dụng 852m2 đất nông nghiệp (bị thu hồi để thực hiện dự án Khu công nghệ cao sinh học H ) từ trước thời điểm thực hiện giao đất theo Nghị định số 64/CP để sản xuất nông nghiệp cho đến khi Nhà nước thu hồi để thực hiện Dự án. Chính quyền địa phương không thực hiện bất kỳ biện pháp gì (thông báo, thu hồi lại, ký họp đồng thuê thầu...) để quản lý đối với phần diện tích này.

Đối với diện tích 852m2 hộ gia đình ông Nguyễn Văn L đang sử dụng bị thu hồi tại dự án xây dựng Khu công nghệ cao sinh học trên địa bàn phường L thửa đất số 568, tờ bản đồ số 16, bản đồ năm 1994 là đất nông nghiệp không giao do UBND phường L quản lý (không thuộc diện tích đất nông nghiệp hộ gia đình được giao theo Nghị định 64/NĐ-CP). Do đó, ngày 11/4/2016, UBND quận B ban hành Quyết định số 1372/QĐ-UBND về việc thu hồi 852m2 đất nông nghiệp không giao do UBND phường L quản lý, hiện hộ gia đình ông Nguyễn Văn L đang sử dụng là đúng quy định.

Tại phương án bồi thường, hỗ trợ đối với hộ gia đình ông Nguyễn Văn L đã tính bồi thường về đất theo giá đất nông nghiệp là đúng với quy định tại khoản 2 Điều 77 Luật Đất đai năm 2013, không được tính hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm bằng 5 lần giá đất nông nghiệp là đúng quy định tại khoản 1 Điều 20 Nghị định 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ. Vì vậy, ông Nguyễn Văn L đề nghị được bồi thường, hỗ trợ chuyển đổi nghề và tạo việc làm bằng 5 lần giá đất nông nghiệp đối với phần diện tích 852 m2 đất nông nghiệp hộ gia đình đang sử dụng là không có cơ sở chấp nhận.

Theo phiếu xác nhận bổ sung ngày 04/6/2015 của UBND phường L , hộ gia đình ông Nguyễn Văn L xây dựng công trình trên diện tích đất bị thu hồi để phục vụ sản xuất nông nghiêp không có văn bản cho phép của UBND xã L . Do đó, được hỗ trợ về công trình bằng 80% mức bồi thường đơn giá đối với công trình xây dựng trước ngày 15/10/1993 và hỗ trợ 10% đối với công trình xây dựng sau ngày 01/7/2004 đến trước ngày 01/7/2014 là đúng theo quy định tại khoản 1, khoản 3 Điều 14 Quyết định 23/2014/QĐ-UBND ngày 20/6/2014 và Quyết định số 02/2016/QĐ-UBND ngày 21/01/2016 của UBND thành phố H .

Tuy nhiên, ngày 27/6/2016, UBND phường L có văn bản số 205/UBND-ĐC đề nghị UBND Quận xem xét bồi thường, hỗ trợ phần công trình trên đất nông nghiệp cho các hộ gia đình với nội dung: “UBND xã L trước đây (nay là UBND phường L ) tạo điều kiện cho các hộ gia đình, cá nhân sản xuất nông nghiệp được xây dựng một số công trình phụ trợ phục vụ sản xuất nông nghiệp không lập biên bản vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai và trật tự xây dụng gồm các công trình: bể phân; giếng khoan; nhà lưới ni lông, khung tre; hàng rào lưới B40; tường rào xây gạch, nhà tạm đế dụng cụ sản xuất nông nghiệp và trông nom tài sản”. Như vậy, các công trình xây dựng của hộ gia đình ông Nguyễn Văn L phục vụ sản xuất nông nghiệp không có văn bản cho phép của UBND phường L song đã được UBND phường L tạo điều kiện cho xây dựng mà không xử lý. Do đó, cần xem xét áp dụng khoản 2 Điều 12 Quyết định 23/2014/QĐ-UBND ngày 20/6/2014 của UBND thành phố H để được bồi thường về công trình bằng 100% đơn giá xây dựng. Tại Quyết định số 3063/QĐ-UBND ngày 29/7/2016 của Chủ tịch UBND quận B về việc giải quyết đơn khiếu nại lần đầu đã quyết định bồi thường về công trình bằng 100% đơn giá xây dựng cho hộ gia đình ông Nguyễn Văn L .

Như vậy, Hội đồng xét xử xác định diện tích 825m2 đất do hộ gia đình ông Nguyễn Văn L đang sử dụng bị thu hồi để thực hiện dự án Khu công nghệ cao sinh học là đất nông nghiệp không được giao theo Nghị định 64/CP. Do đó, ngày 11/4/2016, UBND quận B ban hành Quyết định số 1372/QĐ-UBND về việc thu hồi 825m2 đất nông nghiệp và Quyết định số 1443/QĐ-UBND về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ đối với hộ gia đình ông Nguyễn Văn L đã bồi thường 01 lần giá đất nông nghiệp là đúng với quy định tại khoản 2, Điều 77, Luật Đất đai năm 2013, không tính hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm bằng 5 lần giá đất nông nghiệp là đúng quy định tại khoản 1, Điều 20, Nghị định 47/2014/NĐ- CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ.

Chủ tịch UBND quận B đã ban hành Quyết định số 3063/QĐ-UBND ngày 29/7/2016 về việc giải quyết khiếu nại lần đầu và Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố H ban hành Quyết định số 6880/QĐ-UBND ngày 15/12/2016 về giải quyết khiếu nại lần hai đối với ông Nguyễn Văn L là đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục, nội dung đảm bảo quy định của pháp luật.

Quá trình giải quyết, ông Nguyễn Văn L trình bày một số hộ dân ở phường L , phường Tây Tựu bị thu hồi đất để thực hiện dự án có diện tích như gia đình ông bị thu hồi nhưng không được bồi thường, hỗ trợ nghề và tìm kiếm việc làm. Các hộ dân đã khởi kiện đến Toà án nhân dân thành phố H và Tòa án nhân dân thành phố H đã căn cứ điều 74, điều 75 Luật đất đai 2013 và điểm d khoản 1 điều 19, khoản 1 điều 20 nghị định 47/2014/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định 01/2017/NĐ-CP về sửa đổi bổ sung một số nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Đất đai xử hủy quyết định và chấp nhận phương án hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm bằng 5 lần giá đất nông nghiệp và Bản án đã có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên các bản án này Tòa án nhân dân cấp cao đã xét xử theo trình tự Giám đốc thẩm và quyết định hủy toàn bộ các Bản án sơ thẩm nói trên để xét xử lại theo thẩm quyền. Mặt khác, tại thời điểm hộ gia đình ông L bị thu hồi đất là vào năm 2016 khi đó Nghị định 01/2017/NĐ-CP ngày 06/01/2017 chưa có hiệu lực pháp luật ( có hiệu lực từ ngày 03/3/2017). Tại Điều 5 của Nghị định có quy định về Điều khoản chuyển tiếp như sau: “Trường hợp đã có quyết định thu hồi đất và có phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư được phê duyệt theo quy định của pháp luật về đất đai trước ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành thì tiếp tục thực hiện theo phương án đã phê duyệt và không áp dụng theo quy định của Nghị định này”. Như vậy, trường hợp của hộ gia đình ông L không được áp dụng các quy định của Nghị định 01/2017/NĐ-CP ngày 06/01/2017 để được hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm bằng 5 lần giá đất nông nghiệp.

Do các Quyết định hành chính nêu trên đều đúng pháp luật và đã đảm bảo quyền lợi cho hộ gia đình ông Nguyễn Văn L nên không có cơ sở để chấp nhận yêu cầu của ông L về việc buộc UBND quận B ra Quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ bổ sung cho gia đình ông L số tiền 948.700.405 đồng.

Từ phân tích, nhận định và đánh giá trên, Hội đồng xét xử xét thấy không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn L . Do vậy, căn cứ khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 193 Luật Tố tụng hành chính xử bác các yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn L .

[3] Về án phí: Yêu cầu khởi kiện không được chấp nhận nên ông Nguyễn Văn L phải chịu án phí hành chính sơ thẩm theo quy định tại khoản 1 Điều 348 Luật Tố tụng hành chính và Nghị quyết 326/2016 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án. Do ông Nguyễn Văn L là người cao tuổi nên được miễn án phí.

[4] Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 204 và Điều 206 Luật Tố tụng hành chính.

Đề nghị của Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H tại phiên tòa phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sơ và nhận định của Hội đồng xét xử.

Từ nhận định trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 193 Luật Tố tụng hành chính.

Áp dụng khoản 1 Điều 3, Điều 30, Điều 32, khoản 1 Điều 158; Khoản 1, Điểm b khoản 2 Điều 193, Điều 194; Điều 204; Điều 206; Khoản 1 Điều 348 Luật Tố tụng hành chính; khoản 1 Điều 88 và khoản 1, 2 Điều 89 Luật Đất đai năm 2013; Điều 31, Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính Phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật đất đai; khoản 1,3 Điều 9 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất và điểm a khoản 1 Điều 12 Quyết định số 10/2017/QĐ-UBND ngày 29/03/2017 của UBND thành phố H ban hành quy định các nội dung thuộc thẩm quyền của UBND thành phố H về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn thành phố H .

Luật Phí và Lệ phí; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử: 1/ Bác yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn L yêu cầu Tòa án hủy các Quyết định sau:

- Quyết định số 1443/QĐ-UBND ngày 11/4/2016 của UBND quận B về phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ chi tiết;

- Quyết định số 3063/QĐ-UBND ngày 29/7/2016 của Chủ tịch UBND quận B về việc giải quyết đơn khiếu nại lần đầu;

- Quyết định số 6880/QĐ-UBND ngày 15/12/2016 của Chủ tịch UBND thành phố H về việc giải quyết khiếu nại lần hai.

2/ Bác yêu cầu của ông Nguyễn Văn L đề nghị UBND quận B ra quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ bổ sung cho gia đình ông số tiền 948.700.405 đồng.

3/ Về án phí hành chính sơ thẩm: Ông Nguyễn Văn L không phải chịu án phí hành chính sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm, các đương sự có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Các đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

351
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 48/2021/HC-ST ngày 29/03/2021 về khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai

Số hiệu:48/2021/HC-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Hành chính
Ngày ban hành: 29/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về