Bản án 48/2020/HS-ST ngày 29/04/2020 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VĨNH YÊN, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 48/2020/HS-ST NGÀY 29/04/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 4 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 24/2020/HS-ST ngày 17 tháng 02 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 32/2020/QĐXXST - HS ngày 06 tháng 3 năm 2020, đối với bị cáo:

Nguyễn Văn Gi, sinh ngày 11/3/1992; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn D, xã Đạo T, huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa:12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T và bà Nguyễn Thị Ng; vợ: Dương Thị Hồng H, sinh năm 1994, con: có 02 con ; lớn sinh năm 2013 nhỏ sinh năm 2016; tiền án: Có 01 tiền án. Tại Bản án số 86/2017/HSST ngày 27/12/2017 của Tòa án nhân dân huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt Nguyễn Văn Gi 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo chấp hành xong hình phạt ngày 04/6/2018; tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 20/11/2019 cho đến nay (có mặt).

Nguyên đơn dân sự: Công ty cổ phần Môi trường và dịch vụ đô thị Vĩnh Yên; do ông Nguyễn Thanh T – Tổng giám đốc Công ty là người đại diện theo pháp luật; địa chỉ: Số 379 đường Mê Linh, phường Liên Bảo, thành phố Vĩnh yên, tỉnh Vĩnh Phúc (vắng mặt).

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn dân sự: Ông Nguyễn Khắc H, sinh năm 1982 là nhân viên Công ty; địa chỉ: Tổ dân phố Đồng Thịnh, phường Đồng Tâm, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc (vắng mặt).

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Nguyễn Văn Nsinh năm 1976; nơi cư trú: Thôn Đồng Ké, xã Hoàng Đan, huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Văn Gi là đối tượng nghiện ma túy để có tiền tiêu sài cá nhân và mua ma túy để sử dụng, trong khoảng thời gian từ ngày 04/9/2019 đến ngày 29/9/2019, Gi đi làm thợ sơn cho anh Ngô Văn Quang đã mượn xe máy Biển Kiểm soát 89FA – 2227 của anh Ngô Văn Quang để đi về nhà nhưng đã sử dụng chiếc xe này làm phương tiện thực hiện 04 vụ trộm cắp tài sản của Công ty cổ phần Môi trường và Dịch vụ đô thị Vĩnh Yên khu vực phường Đồng Tâm, thành phố Vĩnh Yên cụ thể:

Vụ thứ nhất: Khoảng 09 giờ ngày 04/9/2019 Gi mượn xe máy BKS 89FA – 2227 của anh Quang đến khu vực đường Hoàng Hoa Thám thuộc tổ dân phố Lai Sơn, phường Đồng Tâm, thành phố Vĩnh Yên, thấy có một số xe chở rác của Công ty cổ phần Môi trường và Dịch vụ đô thị Vĩnh Yên đang để tại bãi tập kết rác ven đường, quan sát không thấy ai trông giữ đã lén lút trộm cắp 01 chiếc xe chở rác loại 500 lít, số hiệu 45 rồi đi về cửa hàng mua bán sắt vụn tại thôn Đông, xã Duy Phiên, huyện Tam Dương của anh của anh Nguyễn Văn Nvà bán chiếc xe chở rác cho anh Nvới giá 5000đ/kg được 300.000đ.

Vụ thứ hai: Khoảng 15 giờ 30 phút ngày 07/9/2019, Gi tiếp tục lén lút trộm cắp 01 chiếc xe chở rác loại 500 lít, số hiệu 178 và 01 chiếc khung xe chở rác số hiệu 82 và 01 khung xe chở rác số hiệu 189 của Công ty cổ phần Môi trường và Dịch vụ đô thị Vĩnh Yên để khu tập kết rác ở đường Hoàng Hoa Thám, tổ dân phố Lai Sơn, phường Đồng Tâm rồi mang về bán cho anh Nđược 600.000đ.

Vụ thứ ba: Khoảng 15 giờ 30 phút ngày 27/9/2019 Gi trộm cắp 01 chiếc xe chở rác loại 500 lít, số hiệu 183 của Công ty cổ phần Môi trường và Dịch vụ đô thị Vĩnh Yên để ở bãi tập kết rác tại gầm cầu vượt đường Lý Thường Kiệt thuộc tổ dân phố Lai Sơn, phường Đồng Tâm, thành phố Vĩnh Yên rồi bán cho anh Nđược 300.000đ.

Vụ thứ tư: Khoảng 12 giờ ngày 29/9/2019 Gi trộm cắp 01 chiếc xe gom rác loại 500 lít, số hiệu 111 của Công ty cổ phần Môi trường và Dịch vụ đô thị Vĩnh Yên của Công ty cổ phần Môi trường và Dịch vụ đô thị Vĩnh Yên để ở bãi tập kết rác tại gầm cầu vượt đường Lý Thường Kiệt thuộc tổ dân phố Lai Sơn, phường Đồng Tâm, thành phố Vĩnh Yên rồi bán cho anh Nđược 300.000đ.

Ngày 30/9/2019, anh Ngô Khắc Hiếu là đại diện theo ủy quyền của Công ty cổ phần Môi trường và Dịch vụ đô thị Vĩnh Yên, địa chỉ: Số 379 đường Mê Linh, phường Liên Bảo, thành phố Vĩnh Yên đến cơ quan Công an trình báo sự việc.

Ngày 07/10/2019, Cơ quan CSĐT Công an thành phố Vĩnh Yên đã thu giữ tại cửa hàng bán thu mua sắt vụn của anh Nguyễn Văn Ngồm: 01 khung sắt hình chữ nhật được gắn bằng 04 ống sắt có đường kính 4,5cm trong đó 02 thanh dài 83 cm, 02 thanh dài 50cm; 01 khung sắt hình chữ U được gắn với 03 thanh sắt V trong đó 02 thanh cạnh dài 70cm, thanh giữa dài 75cm; 01 thanh sắt ống dài 80cm có đường kính 4,5 cm; 01 thanh sắt hình chữ T dài 75cm, anh Nkhai nhận đây là các mảnh sắt anh Ncắt nhỏ từ các xe chở rác và khung xe rác ra sau khi mua lại của Gi.

Tại Kết luận định giá tài sản số 194/KL-HĐĐG ngày 11/10/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự UBND thành phố Vĩnh Yên kết luận:

04 xe chở rác loại 500 lít có trị giá 2.000.000đ x 04 xe = 8.000.000đ; 02 khung xe chở rác có trị giá 1.500.000đ x 02 = 3.000.000đ. Tổng trị giá là 11.000.000đ (Mười một triệu đồng).

Đối với 04 xe chở rác loại 500 lít, có số hiệu 45, 111, 178, 183 và 02 khung xe chở rác có số hiệu 82, 189. Quá trình điều tra xác định, số tài sản này là của Công ty cổ phần Môi trường và Dịch vụ đô thị Vĩnh Yên đang để tại các bãi tập kết rác theo quy định của Công ty trên địa bàn phường Đồng Tâm, thành phố Vĩnh Yên thì bị Nguyễn Văn Gi lén lút trộm cắp sau đó đem đi bán cho anh Nguyễn Văn Ngọc. Sau khi mua lại 04 xe chở rác và 02 khung xe rác của Gi, anh Nđã cắt nhỏ thành các mảnh sắt vụn rồi bán cho một người phụ nữ (không rõ họ tên, tuổi và địa chỉ) thu mua phế liệu nên Cơ quan điều tra không thu giữ hết được.

Ngày 19/11/2019, Cơ quan CSĐT Công an thành phố Vĩnh Yên trả lại 01 khung sắt hình chữ nhật được gắn bằng 04 ống sắt có đường kính 4,5cm trong đó 02 thanh dài 83 cm, 02 thanh dài 50cm; 01 khung sắt hình chữ U được gắn với 03 thanh sắt V trong đó 02 thanh cạnh dài 70cm, thanh giữa dài 75cm; 01 thanh sắt ống dài 80cm có đường kính 4,5 cm; 01 thanh sắt hình chữ T dài 75cm cho Công ty cổ phần Môi trường và Dịch vụ đô thị Vĩnh Yên.

Về trách nhiệm dân sự: Sau khi sự việc xảy ra, do không thu hồi được hết số tài sản Nguyễn Văn Gi trộm cắp của Công ty cổ phần Môi trường và Dịch vụ đô thị Vĩnh Yên nên Công ty cổ phần Môi trường và Dịch vụ đô thị Vĩnh Yên yêu cầu Gi phải tiếp tục bồi thường cho Công ty số tiền 8.000.000đ để khắc phục hậu quả.

Bị cáo đồng ý bồi thường theo yêu cầu của Công ty cổ phần Môi trường và Dịch vụ đô thị Vĩnh Yên.

Tại Cáo trạng số: 24/CT-VKS-VY ngày 17/02/2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Yên đã truy tố Nguyễn Văn Gi về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Tại Cơ quan điều tra, cũng như tại phiên tòa Nguyễn Văn Gi khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng đã nêu trên.

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn dân sự và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng vắng mặt nhưng đã có lời khai nhận phù hợp với nội dung Cáo trạng đã nêu trên.

Đại diện Viện kiểm sát luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng. Căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của người phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h,g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Gi từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giam. Áp dụng khoản 1, khoản 2 Điều 47, khoản 1 Điều 48 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; khoản 1 Điều 584, khoản 1 Điều 585, Điều 589, Điều 357 và khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự 2015; đề nghị tịch thu sung vào Ngân sách số tiền 300.000đ thu lời bất chính do anh Nguyễn Văn Ngiao nộp cho cơ quan điều tra và buộc bị cáo Nguyễn Văn Gi phải bồi thường thiệt hại về tài sản cho Công ty Cổ phần dịch vụ đô thị Vĩnh Yên số tiền 8.000.000đ.

Bị cáo không bào chữa và tranh luận gì. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai nhận tội nêu trên của bị cáo Nguyễn Văn Gi tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa phù hợp lời khai của người đại diện hợp pháp của nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng về thời gian, địa điểm, thủ đoạn, mục đích, động cơ phạm tội và hậu quả do tội phạm gây ra, cùng các tài liệu chứng cứ khác được thu thập khách quan đúng pháp luật có trong hồ sơ vụ án. Do đó có đủ căn cứ để kết luận:

Trong khoảng thời gian từ ngày 04/9/2019 đến ngày 29/9/2019, Nguyễn Văn Gi liên tiếp thực hiện 04 vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn phường Đồng Tâm, thành phố Vĩnh Yên của Công ty Cổ phần Môi trường và dịch vụ đô thị với tổng trị giá tài sản chiếm đoạt là 11.000.000đ, cụ thể như sau:

Khoảng 9h30 ngày 04/09/2019, tại bãi tập kết rác ven đường Hoàng Hoa Thám thuộc tổ dân phố Lai Sơn, phường Đồng Tâm, thành phố Vĩnh Yên, Gi đã lén lút chiếm đoạt 01 xe chở rác loại 500 lít, số hiệu 45 có giá trị tài sản theo kết luận định giá là 2.000.000đ.

Khoảng 16 giờ ngày 07/9/2019, tại bãi tập kết rác ven đường đường Hoàng Hoa Thám thuộc tổ dân phố Lai Sơn, phường Đồng Tâm, thành phố Vĩnh Yên, Gi lén lút trộm cắp 01 chiếc xe chở rác loại 500 lít, số hiệu 178 và 02 chiếc khung xe chở rác số hiệu 189, 82, có tổng trị giá là 5.000.000 đồng.

Khoảng 16 giờ ngày 27/9/2019, tại bãi tập kết rác gầm cầu vượt đường Lý Thường Kiệt thuộc tổ dân phố Lai Sơn, phường Đồng Tâm, thành phố Vĩnh Yên, Gi lén lút trộm cắp 01 chiếc xe chở rác loại 500 lít, số hiệu 183 có trị giá là 2.000.000 đồng.

Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 29/9/2019, tại bãi tập kết rác ven đường đường Lý Thường Kiệt thuộc tổ dân phố Lai Sơn, phường Đồng Tâm, thành phố Vĩnh Yên, Gi lén lút trộm cắp 01 chiếc xe chở rác loại 500 lít, số hiệu 111 có trị giá là 2.000.000 đồng.

Hành vi nêu trên của bị cáo Nguyễn Văn Gi đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) có khung hình phạt cải tạo giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an và an toàn trong xã hội. Do vậy, cần phải xử lý thật nghiêm minh mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

[2] Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của người phạm tội, Hội đồng xét xử NHẬN THẤY

Bị cáo phạm tội theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự, có mức cao nhất của khung hình phạt đến 03 năm tù nên thuộc trường hợp tội phạm ít nghiêm trọng.

Bị cáo là thanh niên tuổi đời còn trẻ có sức khỏe nhưng lại ham chơi, đua đòi, không chịu tu dưỡng bản thân, sớm vướng vào các tệ nạn xã hội, để có tiền thỏa mãn nhu cầu mua ma túy và tiêu sài cá nhân trong thời gian ngắn đã liên tiếp 04 lần trộm cắp tài sản của Công ty Cổ phần Môi trường và dịch vụ đô thị Vĩnh Yên với lỗi cố ý, trị giá tài sản thấp nhất mỗi lần trộm cắp là 2.000.000đ, cao nhất là 5.000.000đ, điều này thể hiện sự manh động, liều lĩnh, táo bạo coi thường pháp luật của bị cáo, do đó cần xử phạt thật nghiêm để làm gương cho người khác.

Về nhân thân các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thấy rằng: Bản thân bị cáo là người có nhân thân xấu, có 01 tiền án về tội trộm cắp chưa được xóa án tích do đó lần phạm tội này bị cáo thuộc trường hợp “Tái phạm” đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015; ngoài ra trong thời gian ngắn bị cáo liên tiếp thực hiện 04 vụ trộm cắp lên còn bị áp dụng thêm tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đó là “ Phạm tội từ 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Do bị cáo có nhân thân xấu, có 02 tình tiết tăng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 ngoài ra hành vi của bị cáo gây dư luận không tốt trong quần chúng nhân dân lao động do đó cần xử phạt bị cáo thật nghiêm, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội, buộc phải chấp hành hình phạt tù giam một thời gian mới có tác dụng giáo dục cải tạo bị cáo trở thành người lương thiện, người công dân có ích cho xã hội.

Bị cáo được áp dụng 01 tình tiết giảm nhẹ đó là tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo đã “Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 để xem xét giảm nhẹ hình phạt khi lượng hình.

[3] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng. Tuy nhiên, quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa xác định bị cáo là người nghiện ma túy, bản thân không có thu nhập ổn định, không có tài sản riêng nên Hội đồng xét xử quyết định miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[4] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.

[5] Đối với là anh Nguyễn Văn Nlà người mua tài sản do Nguyễn Văn Gi trộm cắp. Khi mua các tài sản này anh Nkhông biết đó là tài sản do Gi trộm cắp mà có nên cơ quan điều tra không đề cập xử lý là có căn cứ.

[6] Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng Đối với số tiền 300.000đ anh Ngiao nộp cho cơ quan điều tra xác định đây là số tiền thu lời bất chính từ việc bán xe rác của bị cáo Gi mà có nên cần tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước.

Đối với chiếc xe máy Honda Biển kiểm soát 89 FA – 2227 là xe của anh Ngô Văn Quang cho Gi mượn, anh Quang không biết Gi sử dụng làm phương tiện phạm tội do đó cơ quan điều tra không đề cập xử lý là có căn cứ.

Đối với hành vi mua ma túy để về sử dụng, quá trình điều tra Gi khai mua của một người nam giới không rõ họ tên, tuổi, địa chỉ cụ thể ở khu vực cổng chợ Vĩnh Yên, cơ quan điều tra đã điều tra nhưng không xác định được nên không có căn cứ để xem xét.

Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra Công ty Cổ phần dịch vụ đô thị Vĩnh Yên yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại số tài sản không thu hồi được là 8.000.000đ, tại phiên tòa bị cáo đồng ý bồi thường theo yêu cầu của Công ty Cổ phần dịch vụ đô thị Vĩnh Yên, việc bồi thương này của bị cáo là hoàn toàn tự nguyện được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Về các vấn đề khác: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự trong án hình sự theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h, g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Gi 2 (Hai) năm 03 (Ba) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam (ngày 20/11/2019).

Căn cứ khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Tịch thu sung vào Ngân sách số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) thu lời bất chính do anh Nguyễn Văn Ngiao nộp cho cơ quan điều tra (Có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 18/2/2020).

Căn cứ khoản 1 Điều 48 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; khoản 1 Điều 584, khoản 1 Điều 585, Điều 589, Điều 357 và khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự 2015.

Xử: Buộc bị cáo Nguyễn Văn Gi phải bồi thường thiệt hại về tài sản cho Công ty Cổ phần dịch vụ đô thị Vĩnh Yên số tiền 8.000.000đ (Tám triệu đồng).

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, số tiền nêu trên người phải thi hành án không trả được, thì các bên có quyền thỏa thuận lãi suất chậm trả theo quy định tại Điều 357 của Bộ luật Dân sự. Nếu các bên không thỏa thuận được thì người phải thi hành án phải chịu lãi suất chậm trả theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự.

Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTV-QH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Nguyễn Văn Gi phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 400.000đ (Bốn trăm nghìn đồng) án phí dân sự trong hình sự.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Bị cáo có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn dân sự và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

221
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 48/2020/HS-ST ngày 29/04/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:48/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về