Bản án 48/2020/HS-ST ngày 26/11/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ HƯƠNG TRÀ, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

BẢN ÁN 48/2020/HS-ST NGÀY 26/11/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 26 tháng 11 năm 2020, tại Tòa án nhân dân thị xã Hương Trà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 47/2020/TLST-HS ngày 27 tháng 10 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 49/2020/QĐXXST- HS ngày 11 tháng 11 năm 2020, đối với bị cáo:

Họ và tên: Cao Bảo T; sinh ngày 30/10/1980; nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và chỗ ở: Tổ X, Cụm N, phường Đ, quận T, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Không; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; con của ông Cao Ngọc V và bà Vũ Thị H; có vợ đã ly hôn là Lê Thu A; có con là Cao Bảo K, sinh năm 2011. Về nhân thân: Từ năm 1998 đến năm 2000, học tại trường Đại học Bách khoa Hà Nội; ngày 26/9/2002, bị Toà án nhân dân quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội tuyên phạt 15 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 30 tháng về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 139 Bộ luật hình sự; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 20/7/2020, ngày 24/7/2020 chuyển tạm giam cho đến nay, có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Dương Tiến Dũng - Trợ giúp viên pháp lý Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Thừa Thiên Huế; có mặt

- Người bị hại: Lê Thị Q; địa chỉ: thôn B, xã T, thị xã A, tỉnh Thừa Thiên Huế; vắng mặt

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Lê Văn T; địa chỉ: thôn B, xã T, thị xã A, tỉnh Thừa Thiên Huế; vắng mặt

- Người làm chứng:

1. Nguyễn Ngọc Giao B; địa chỉ: thôn B, xã T, thị xã A, tỉnh Thừa Thiên Huế; vắng mặt

2. Hồ Thị T, sinh năm 1981; địa chỉ: thôn B, xã T, thị xã A, tỉnh Thừa Thiên Huế; vắng mặt

3. Lê Thị H: địa chỉ: thôn B, xã T, thị xã A, tỉnh Thừa Thiên Huế; vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Cao Bảo T là đối tượng không có nghề nghiệp ổn định. Khoảng tháng 4/2020, T đến thuê nhà trọ và chung sống với 01 người phụ nữ tên G (chưa rõ nhân thân, lai lịch cụ thể) tại thị trấn T, huyện N, tỉnh Thừa Thiên Huế. Chiều ngày 18/7/2020, T đi xe buýt từ huyện N về thành phố H. Vào sáng ngày 19/7/2020, T đi bộ và thuê xe ôm từ thành phố H đến khu vực cầu A, xã T, thị xã A để đón xe ra Hà Nội. Khoảng 14 giờ ngày 19/7/2020, T đến quán nước của bà Lê Thị H ở thôn B, xã T, thị xã A, tỉnh Thừa Thiên Huế ngồi uống nước, đến khoảng 18 giờ cùng ngày, T trả tiền nước uống rồi đi bộ sang quán nước đối diện của bà Hồ Thị T mua 01 chai nước uống. Lúc này, T phát hiện thấy chị Lê Thị Q, điều khiển 01 xe mô tô nhãn hiệu SH, biển số kiểm soát 75D1-360.18 đến và dựng trước quán nước của chị Q, đuôi xe mô tô hướng đường tránh Huế, đầu xe hướng A Lưới (phía bên tay phải quán nước chị H). Lúc này, T nảy sinh ý định trộm cắp xe mô tô trên làm phương tiện để đi về Hà Nội nên đứng nhìn sang quán nước bà Q, thấy trước quán và xung quanh xe mô tô không có người trông giữ nên T liền đi bộ đến bên trái xe mô tô dùng 02 tay dắt xe di chuyển ra hướng đường tránh Huế (xe không có chìa khoá và không khoá cổ, T dự định dắt xe mô tô đi tìm quán sửa xe mở khoá để điều khiển ra Hà Nội). Khi T dắt xe mô tô di chuyển được 03 mét thì bị chị Q cùng người dân phát hiện bắt giữ cùng tang vật vụ án.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 40/KL-HĐĐGTS ngày 21 tháng 7 năm 2020, Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thị xã Hương Trà đã kết luận 01 xe mô tô, nhãn hiệu Honda loại SH, BKS: 75D1-360.18 có trị giá 72.400.000 đồng.

Ngày 24/7/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Hương Trà đã ra Quyết định số 108 trưng cầu Trung tâm pháp y Tâm thần khu vực miền trung xác định khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của Cao Bảo T trước, trong và sau khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản.

Tại bản kết luận giám định số 847/KLGĐ ngày 16/10/2020 Trung tâm pháp y Tâm thần Khu vực miền trung – Bộ y tế kết luận:

* Trước thời điểm gây án:

a. Kết luận về y học: Tâm thần phân liệt thể Paranoid, tiến triển liên tục (F20.00).

b. Kết luận về khả năng nhận thức và điều khiển hành vi: Hạn chế khả năng nhận thức và hạn chế khả năng điều khiển hành vi.

* Tại thời điểm gây án:

a. Kết luận về y học: Tâm thần phân liệt thể Paranoid, tiến triển liên tục (F20.00).

b. Kết luận về khả năng nhận thức và điều khiển hành vi: Hạn chế khả năng nhận thức và hạn chế khả năng điều khiển hành vi.

* Thời điểm hiện tại:

a. Kết luận về y học: Tâm thần phân liệt thể Paranoid, tiến triển liên tục (F20.00). Đối tượng cần được điều trị ngoại trú liên tục.

b. Kết luận về khả năng nhận thức và điều khiển hành vi: Hạn chế khả năng nhận thức và hạn chế khả năng điều khiển hành vi.

2. Ý kiến khác: Không.” Ngày 16/10/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Hương Trà có Công văn số 311 đề nghị Trung tâm pháp y Tâm thần khu vực miền trung kết luận rõ nội dung giám định tâm thần của Cao Bảo T. Kết luận rõ về năng lực trách nhiệm hình sự đối với Cao Bảo T tại 03 thời điểm: Trước thời điểm gây án; tại thời điểm gây án; thời điểm hiện tại.

Tại Công văn số 282/PYTT-PKHTH của Trung tâm pháp y Tâm thần khu vực miền trung xác định: “Trước thời điểm gây án, tại thời điểm gây án và hiện tại Cao Bảo T mặc dù hạn chế khả năng nhận thức và hạn chế khả năng điều khiển hành vi, nhưng vẫn chịu trách nhiệm hình sự” * Về vật chứng: Đã thu giữ 01 xe mô tô, nhãn hiệu Honda loại SH, BKS 75D1-360.18. Ngày 25/7/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Hương Trà đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại 01 xe mô tô, nhãn hiệu Honda loại SH, BKS: 75D1-360.18 cho Lê Thị Q.

* Về trách nhiệm dân sự: Chị Lê Thị Q đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu gì về dân sự, đề nghị bãi nại cho hành vi của Cao Bảo T.

Hành vi lén lút chiếm đoạt 01 xe mô tô có giá trị 72.400.000 đồng của Cao Bảo T đã bị Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hương Trà truy tố về tội “Trộm cắp tài sản”, quy định tại điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173; điểm h, q, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54 của Bộ luật hình sự; đề nghị xử phạt bị cáo Cao Bảo T từ 12 tháng đến 15 tháng tù; về xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự: Đã giải quyết xong, không có yêu cầu gì khác nên không xem xét; về án phí: Buộc bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Người bào chữa cho bị cáo tại phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử xem xét động cơ, mục đích phạm tội của bị cáo, đề nghị áp dụng điểm h, q, s, x khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Cao Bảo T 06 (sáu) tháng tù để tạo điều kiện cho bị cáo được sớm về với gia đình và có thời gian chữa bệnh.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra Viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận điều tra và bản Cáo trạng nên các hành vi quyết định của cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Vào lúc 18 giờ 45 phút ngày 19 tháng 7 năm 2020 tại thôn B, xã T, thị xã A, tỉnh Thừa Thiên Huế, Cao Bảo T đã có hành vi lén lút lấy trộm của chị Lê Thị Q 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda SH, biển số 75D1-360.18 có trị giá 72.400.000 đồng.

Tại kết luận giám định số 847/KLGĐ ngày 16/10/2020 của Trung tâm pháp y Tâm thần Khu vực miền Trung- Bộ Y tế đã xác định khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của Cao Bảo T trước, trong và sau khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản như sau: Về y học: Tâm thần phân liệt thể Paranoid, tiến triển liên tục (F20.00); về khả năng nhận thức và điều khiển hành vi: Hạn chế khả năng nhận thức và hạn chế khả năng điều khiển hành vi. Đối tượng cần được điều trị ngoại trú liên tục.

Tại Công văn số 282/PYTT-PKHTH của Trung tâm pháp y Tâm thần khu vực miền Trung xác định: “Trước thời điểm gây án, tại thời điểm gây án và hiện tại Cao Bảo T mặc dù hạn chế khả năng nhận thức và hạn chế khả năng điều khiển hành vi, nhưng vẫn chịu trách nhiệm hình sự”.

Như vậy, hành vi của Cao Bảo T đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hương Trà truy tố bị cáo theo tội danh và điều luật đã viện dẫn trên là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét các tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phạm tình tiết nào.

[4] Xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo Cao Bảo T được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự gồm: Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại; khi phạm tội và tại thời điểm xét xử bị cáo là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức và hạn chế khả năng điều khiển hành vi; thành khẩn khai báo; ăn năn hối cải; cha và mẹ của bị cáo là người có công với cách mạng được Nhà nước Việt Nam tặng thưởng nhiều Huân, Huy chương cao quý; bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, các tình tiết trên được quy định tại điểm h, q, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[5] Xét về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Bị cáo Cao Bảo T mặc dù hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi nhưng vẫn đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, chỉ vì lý do không có tiền để bắt xe ra Hà Nội nên đã nảy sinh ý định trộm xe mô tô để làm phương tiện ra Hà Nội. Hành vi của bị cáo không những xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác mà còn ảnh hưởng xấu đến trị an địa phương nên cần phải xử lý nghiêm, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để răn đe và phòng ngừa. Tuy nhiên, cần xem xét cho bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, bị cáo tức thời phạm tội mà không có dự mưu từ trước. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định áp dụng Điều 54 của Bộ luật hình sự để xem xét, xử bị cáo hình phạt tù dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, để bị cáo có cơ hội sớm trở về với xã hội và gia đình, tạo điều kiện cho bị cáo sớm được chữa bệnh, thể hiện tính nhân đạo của pháp luật Việt Nam.

[6] Về xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự: Cơ quan điều tra đã xử lý vật chứng xong, đúng pháp luật; về dân sự không có yêu cầu gì, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Cao Bảo T phạm tội “Trộm cắp tài sản”;

Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 173; điểm h, q, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54 của Bộ luật hình sự Xử phạt bị cáo Cao Bảo T 01 (Một) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt tạm giữ 20/7/2020.

2. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của y ban Thường vụ Quốc hội: Buộc bị cáo Cao Bảo T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người bào chữa có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

192
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 48/2020/HS-ST ngày 26/11/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:48/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Hương Trà - Thừa Thiên Huế
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về