Bản án 48/2020/HS-ST ngày 19/05/2020 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SƠN DƯƠNG, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 48/2020/HS-ST NGÀY 19/05/2020 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 19 tháng 5 năm 2020 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 51/2020/TLST-HS, ngày 29/4/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 50/2020/QĐXXST-HS, ngày 07/5/2020 đối với bị cáo:

Trần Thế A, sinh ngày 24/12/1987 tại huyện S, tỉnh Tuyên Quang.

Nơi cư trú: Thôn T, xã H, huyện S, tỉnh Tuyên Quang; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 12/12; nghề nghiệp: Lái xe; con ông: Trần Văn H, sinh năm 1959 và bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1961; vợ: Nguyễn Thị T, sinh năm 1990; con: Có 02 con, con lớn sinh năm 2011, con nhỏ sinh năm 2014; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú, hiện tại ngoại (có mặt).

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Hoàng Văn V - Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Tuyên Quang (có mặt).

- Người bị hại:

1. Hà Văn C, sinh ngày 16/6/2003; trú tại: thôn L, xã T, huyện S, tỉnh Tuyên Quang (Đã chết).

2. Hoàng Văn C, sinh ngày 17/5/2003; trú tại: thôn L, xã T, huyện S, tỉnh Tuyên Quang (Đã chết).

- Người đại diện hợp pháp cho người bị hại:

1. Anh Hoàng Văn H, sinh năm 1979; trú tại: thôn L, xã T, huyện S, tỉnh Tuyên Quang (Là bố đẻ của người bị hại Hoàng Văn C) (có mặt).

2. Anh Lê Văn T, sinh năm 1983; trú tại: thôn L, xã T, huyện S, tỉnh Tuyên Quang (Là bố đẻ của người bị hại Hà Văn C (họ Hà lấy theo họ mẹ) đồng thời là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan) (có mặt).

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Trần Văn H, sinh năm 1959, trú tại: thôn T, xã H, huyện S, tỉnh Tuyên Quang (có mặt).

2. Anh Lê Văn T, sinh năm 1983; trú tại: thôn L, xã T, huyện S, tỉnh Tuyên Quang (có mặt).

- Người làm chứng: Nguyễn Ngọc D, Trịnh Thị H, Nguyễn Văn D, Phạm Văn Đ, Hoàng Thị N, Nguyễn Thị T, Đặng Thị Thanh T, Phan Văn T, Phạm Văn N, Lương Thị T, Phạm Thị T (đều vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 10/4/2017 ông Trần Văn H, sinh năm 1959, trú tại thôn T, xã H, huyện S mua xe ô tô biển kiểm soát 98K - 4098 của anh Nguyễn Duy H, sinh năm 1987, trú tại xã L, huyện L, tỉnh Vĩnh Phúc. Ngày 25/4/2017 ông Trần Văn H thuê con trai là Trần Thế A, sinh ngày 24/12/1987, trú tại thôn T, xã H, huyện S, tỉnh Tuyên Quang lái xe ô tô biển kiểm soát 98K - 4098 đưa đón công nhân ở khu vực các xã P, T, S thuộc huyện S, tỉnh Tuyên Quang đến khu công nghiệp Khai Quang thuộc địa phận thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc.

Khong 20 giờ ngày 11/02/2020, Trần Thế A điều khiển xe ô tô biển kiểm soát 98K - 4098 (Trần Thế A có giấy phép lái xe theo quy định) chở công nhân (trên xe có 14 người) từ khu công nghiệp Khai Quang thuộc địa phận thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc về huyện Stỉnh Tuyên Quang. Khoảng 21 giờ cùng ngày xe ô tô do Trần Thế A điều khiển đi đến Km 57 + 132 Quốc lộ 2C thuộc địa phận thôn T, xã S, huyện S, xe ô tô đi ở giữa đường, phần bánh xe bên lái của xe ô tô di chuyển ở phần đường bên trái theo chiều đi, lúc này xe mô tô biển kiểm soát 22S1 - 287.20 do Hà Văn C, sinh ngày 16/6/2003, trú tại thôn L, xã T, huyện S điều khiển chở Hoàng Văn C, sinh ngày 17/5/2003 (trú cùng thôn với C) đi ngược chiều từ S, Tuyên Quang đi Vĩnh Phúc, (xe mô tô là của anh Lê Văn T, khi C lấy xe mô tô đi anh T không biết, C chưa có giấy phép lái xe theo quy định) ở giữa đường Quốc lộ 2C, khi xe ô tô và xe mô tô cách nhau khoảng 10m, T đánh lái xe ô tô sang phần đường bên phải theo chiều đi của mình thì phần đầu bên lái của xe ô tô do T điều khiển va chạm với phần đầu bên trái xe mô tô do C điều khiển. Hậu quả: Hà Văn C, Hoàng Văn C chết tại chỗ, xe mô tô và xe ô tô bị hư hỏng.

Tại biên bản khám nghiệm hiện trường hồi 21 giờ ngày 11/02/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sơn Dương: Lòng đường nơi xảy ra tai nạn đo hết phần đường nhựa rộng 08m, tiến hành khám nghiệm hiện trường theo hướng Vĩnh Phúc đi Tuyên Quang. Tại hiện trường phát hiện vùng mảnh nhựa, kính vỡ có kích thước (21,6 x 3,9)m, tâm vùng cách mép đường bên phải là 5,82m, trong vùng mảnh nhựa, kính vỡ có 01 vùng tập trung nhiều mảnh kính nhựa vỡ màu đỏ, xanh, đen và kính, vùng tập trung có kích thước (80 x 60)cm, tâm vùng này cách mép đường bên phải 4,9m; Vết tì trượt bám dính tạp chất màu đen có chiều dài 01m, rộng 6,1cm, chiều hướng Vĩnh Phúc đi Tuyên Quang, trên vết là các hình chữ nhật bám dính màu đen đồng đều, các hình có cùng kích thước (2,6 x 2,6)cm, các hình đều cách nhau 0,7cm, tâm đầu vết cách mép đường bên phải là 3,99m, tâm cuối vết cách mép đường bên phải là 3,85m.

Tại biên bản khám phương tiện liên quan đến tai nạn giao thông hồi 14 giờ ngày 12/02/2020 đối với xe mô tô biển kiểm soát 22S1-287.20: Tay nắm bằng cao su của tay lái bên trái lệch khỏi vị trí ban đầu 05cm ra phía ngoài; Toàn bộ mặt phía trước, vai càng trước có vùng tì trượt lõm xước kim loại bám dính tạp chất màu đen, tím, trắng và cách mảnh tạp chất, vùng có kích thước (42 x 03)cm, tâm vùng cao cách mặt đất 36cm, điểm thấp nhất của vùng cách mặt đất 18cm, điểm cao nhất cách mặt đất 59cm, chiều hướng từ trước về sau, từ trái sang phải, vai càng trước bên trái bị tì đẩy từ trước về sau, từ trái sang phải.

Tại biên bản khám phương tiện liên quan đến tai nạn giao thông hồi 15 giờ ngày 12/02/2020 đối với xe ô tô biển kiểm soát 98K-4098: Cụm đèn chiếu sáng bên trái bị vỡ rời khỏi vị trí, giá bắt đèn bị tì mài móp méo, hướng từ phải sang trái, tâm cao cách mặt đất 78cm; Kính chắn gió trước bị vỡ hoàn toàn rời khỏi vị trí.

Tại Kết luận giám định pháp y về tử thi số 46/TT 20 ngày 14/02/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang. Kết luận: Tử thi Hoàng Văn C: Vùng đầu, mặt, cổ, hai tay, hai chân, thắt lưng phải có các vết sưng nề bầm tím, sây sát, rách mất da; Chấn thương sọ não: Tổ chức dưới da vùng trán, chẩm bầm tím, tụ máu, xương vòm sọ vỡ phức tạp thành nhiều mảnh, màng cứng rách, tổ chức não dập nát, tụ máu; Chấn thương gẫy kín 1/3 dưới xương đùi phải. Nguyên nhân chết: Chấn thương sọ não.

Tại Kết luận giám định pháp y về tử thi số 47/TT 20 ngày 14/02/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang. Kết luận: Tử thi Hà Văn C:

ng đầu, mặt, cổ, ngực, bụng, hai tay, hai chân có các vết bầm tím, sây sát, rách mất da; Chấn thương sọ não: Tổ chức dưới da vùng đỉnh phải chẩm bầm tím, tụ máu, xương vòm sọ tương ứng vỡ, rách màng cứng, tổ chức não dập nát, tụ máu; Chấn thương ngực: Vết thương cổ trái xuống xương đòn trái thấu vào khoang ngực, gẫy hở xương đòn trái, gẫy kín cung trước xương sườn 2, 3 bên phải; Chấn thương gẫy kín 1/3 dưới xương đùi trái, 1/3 dưới hai xương cẳng chân trái, chấn thương gẫy kín đầu dưới hai xương cẳng tay trái; Chấn thương gãy xương hàm dưới qua khe răng 3.2, 3.3. Nguyên nhân chết: Đa chấn thương (chấn thương sọ mặt, chấn thương ngực).

Tại Kết luận giám định số 187/KL-PC09 ngày 02/3/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang. Kết luận: Vị trí va chạm đầu tiên giữa hai phương tiện trên hiện trường ở phía trước đầu vùng vết cày trượt mặt đường đứt quãng (vị trí số 01 trong biên bản khám nghiệm hiện trường) và trong vùng tập trung nhiều mảnh kính, nhựa vỡ màu đỏ, xanh, đen (trong vùng vết số 03), thuộc phần đường bên trái theo hướng khám nghiệm; Vết thủng rách kim loại ở đường gờ thành xe tại góc đầu cabin bên lái xe ô tô biển số 98K-4098 hình thành do va chạm với vết đẩy cong ở tai bắt chân gương và vết mài miết, trượt, bám dính tạp chất dạng sơn màu nâu đỏ ở mặt trước ngoài tay gương chiếu hậu bên trái xe mô tô biển số 22S1 – 287.20 tạo nên là phù hợp; Không đủ cơ sở để xác định tốc độ của các phương tiện tại thời điểm va chạm.

Tại Kết luận giám định số 866/C09-TT3 ngày 20/3/2020 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an. Kết luận: Dấu vết màu nâu đỏ ghi thu tại vị trí số 09 hiện trường (ký hiệu A1) là máu của Hoàng Văn C.

Tại Kết luận giám định số 182,183 cùng ngày 17/02/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang. Kết luận: Trong mẫu máu thu của tử thi Hoàng Văn C gửi giám định có cồn (Ethanol). Nồng độ cồn (Ethanol) trong máu là 111,256 mg/100ml; Trong mẫu máu thu của tử thi Hà Văn C gửi giám định có cồn (Ethanol). Nồng độ cồn (Ethanol) trong máu là 134,521 mg/100ml.

Tại các Kết luận định giá tài sản số 19, 20 cùng ngày 26/02/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Sơn Dương. Kết luận: xe mô tô biển kiểm soát 22S1-287.20 bị thiệt hại 3.004.000 đồng; xe ô tô biển kiểm soát 98K - 4098 bị thiệt hại 8.940.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số 53/CT-VKSSD, ngày 29/4/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sơn Dương đã truy tố bị cáo Trần Thế A về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”, theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 260 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng đã truy tố, đề nghị HĐXX xem xét hoàn cảnh gia đình bị cáo là lao động chính, con còn nhỏ, vợ không có công ăn việc làm, là hộ nghèo, để giảm nhẹ mức án và cho bị cáo cải tạo tại địa phương Đại diện hợp pháp của 02 bị hại trình bày ý kiến, tai nạn xảy ra là nằm ngoài ý muốn của cả hai gia đình bị cáo và bị hại, là điều không mong muốn xảy ra, đồng thời đại diện bị hại cũng thừa nhận các bị hại là người chưa thành niên, khi tham gia giao thông không có giấy phép lái xe theo quy định, không đội mũ bảo hiểm, đã uống rượu bia sử dụng xe máy tham gia giao thông, nên va chạm với xe đi ngược chiều dẫn đến hậu quả đáng tiếc xảy ra. Sau khi sự việc xảy ra bị cáo và gia đình bị cáo đã tích cực khắc phục hậu quả, lo mai táng cho bị hại, bồi thường tổn thất cho gia đình bị hại. Đại diện các bị hại tại phiên tòa đều đề nghị HĐXX miễn trách nhiệm hình sự cho các bị cáo và không yêu cầu bồi thường gì thêm.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến phương tiện tham gia giao thông, không có ý kiến gì về phần bồi thường phương tiện bị hỏng, đã nhận lại xe, đều có ý kiến đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ mức án cho bị cáo.

Kết thúc phần xét hỏi, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Sơn Dương luận tội và tranh luận, giữ nguyên quyết định truy tố về tội danh, điều luật đã nêu trong bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố bị cáo Trần Thế A phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

- Áp dụng: điểm đ khoản 2 Điều 260; điểm b, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Trần Thế A 03 năm tù cho hưởng án treo, thử thách 05 năm. Thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

- Về dân sự các bị hại và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không đề nghị, nên không xem xét. Không đề nghị HĐXX áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự và tuyên quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Bị cáo, người đại diện hợp pháp cho người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có ý kiến tranh luận với luận tội của Viện kiểm sát, đề nghị HĐXX xử bị cáo mức án nhẹ nhất và cho cải tạo tại địa phương.

Người bào chữa cho bị cáo trình bày quan điểm: Nhất trí với tội danh, điều luật Viện kiểm sát đã truy tố đối với bị cáo, đề nghị HĐXX xem xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại; bị cáo đầu thú; người đại diện hợp pháp cho người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; gia đình bị cáo thuộc diện hộ nghèo; người bị hại có lỗi tham gia giao thông đã uống rượu bia, không có giấy phép lái xe, không đội mũ bảo hiểm, đề nghị xử bị cáo mức án khởi điểm của khung hình phạt và cho hưởng án treo cải tạo tại địa phương.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung của vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về việc xem xét hành vi của bị cáo:

Tại phiên tòa, bị cáo Trần Thế A thừa nhận bị cáo có hành vi vi phạm quy định về tham gia giao thông dẫn đến hậu quả nghiêm trọng. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với kết luận giám định và toàn bộ các tài liệu chứng cứ khác trong hồ sơ, do đó có đủ cơ sở xác định:

Khong 21 giờ ngày 11/02/2020, tại Km 57 + 132 Quốc lộ 2C thuộc địa phận thôn T, xã S, huyện S, tỉnh Tuyên Quang; Trần Thế A, sinh ngày 24/12/1987, trú tại thôn T, xã H, huyện S điều khiển xe ô tô nhãn hiệu TRANSINCO biển kiểm soát 98K-4098 của ông Trần Văn H, sinh năm 1959, trú tại thôn T, xã H, huyện S (Thế A có giấy phép lái xe theo quy định, không sử dụng rượu bia và chất gây nghiện khi tham gia giao thông) đi không đúng phần đường quy định (vi phạm khoản 1 Điều 9 Luật giao thông đường bộ: “Điều 9: Quy tắc chung: 1. Người tham gia giao thông phải đi bên phải theo chiều đi của mình, đi đúng làn đường, phần đường quy định và phải chấp hành hệ thống báo hiệu đường bộ”) dẫn đến phần đầu bên trái xe ô tô va chạm với phần đầu bên trái xe mô tô nhãn hiệu HONDA Wave biển kiểm soát 22S1-287.20 do Hà Văn C, sinh ngày 16/6/2003, trú tại thôn L, xã Tân T, huyện Sơn Dương điều khiển chở Hoàng Văn C, sinh ngày 17/5/2003 (trú cùng thôn với C) đi ngược chiều (C chưa có giấy phép lái xe theo quy định, không đội mũ bảo hiểm, đã sử dụng rượu bia và có nồng độ cồn là 134,521mg/100ml máu, Vi phạm khoản 8, khoản 9 Điều 8 Luật giao thông đường bộ), xe mô tô là của anh Lê Văn T, khi C lấy xe mô tô đi anh T không biết. Hậu quả: Hà Văn C và Hoàng Văn C chết tại chỗ, xe mô tô biển kiểm soát 22S1-287.20 bị thiệt hại 3.004.000 đồng, xe ô tô biển kiểm soát 98K-4098 bị thiệt hại 8.940.000 đồng.

Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 260 Bộ luật hình sự.

Hành vi của bị cáo đã vi phạm pháp luật hình sự, xâm phạm vào quy định của Nhà nước về an toàn giao thông đường bộ, làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của giao thông đường bộ, trực tiếp xâm hại đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản của người khác. Do vậy cần phải có mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để răn đe, giáo dục bị cáo, đồng thời phòng ngừa tội phạm chung.

[2] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo có nhân thân tốt, quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả cho gia đình bị hại; người bị hại cũng có một phần lỗi; người đại diện hợp pháp cho người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; người phạm tội đã đầu thú. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự cần áp dụng khi quyết định hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo đã được phân tích ở trên, xét thấy bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, trước khi phạm tội bị cáo luôn chấp hành tốt chính sách, pháp luật của Nhà nước, thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân ở nơi cư trú và có khả năng tự cải tạo. Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, lần đầu phạm tội, bị cáo phạm tội do vô ý, người bị hại cũng có lỗi, bị cáo có đơn xin cải tạo tại địa phương, chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú xác nhận và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, nên không cần buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù mà cho cải tạo tại địa phương cũng không gây nguy hiểm cho xã hội, không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

[3] Về đề nghị của Kiểm sát viên đối với việc giải quyết vụ án: Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo là phù hợp với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội bị cáo đã gây ra. Đồng thời phù hợp với quan điểm của người bào chữa cho bị cáo tại phiên tòa.

[4] Về hình phạt bổ sung:

Quá trình điều tra xác định: Bị cáo Trần Thế A thuộc diện hộ nghèo, gia đình có hoàn cảnh khó khăn, việc xảy ra tai nạn là ngoài ý muốn chủ quan của bị cáo, người bị hại cũng có một phần lỗi, nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 260 Bộ luật hình sự.

[5] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử:

Qua xem xét, nghiên cứu hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định: Quá trình điều tra, truy tố, xét xử, Điều tra viên, Kiểm sát viên đã tuân thủ đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và các văn bản pháp luật có liên quan. Khởi tố, điều tra, thu thập chứng cứ, truy tố đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật. Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử là hợp pháp.

[6] Về vật chứng:

Quá trình điều tra cơ quan điều tra thu giữ: 01 xe ô tô nhãn hiệu TRANSINCO biển kiểm soát 98K-4098; 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA Wave biển kiểm soát 22S1-287.20. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Sơn Dương đã trả lại chiếc xe ô tô nhãn hiệu TRANSINCO biển kiểm soát 98K-4098 ngày 08/4/2020 cho chủ sở hữu là ông Trần Văn Hợp, trả lại chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA Wave biển kiểm soát 22S1-287.20 ngày 20/3/2020 cho chủ sở hữu là anh Lê Văn Thế nên HĐXX không xem xét.

[7] Về phần dân sự:

Bị cáo đã bồi thường cho gia đình người bị hại Hà Văn C, Hoàng Văn C mỗi gia đình 100.000.000 đồng. Đại diện hợp pháp cho hai bị hại không yêu cầu đề nghị gì khác và có đơn xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị cáo. Ông Trần Văn H không đề nghị bị cáo phải bồi thường đối với xe ô tô biển kiểm soát 98K-4098 bị thiệt hại 8.940.000 đồng; anh Lê Văn T không đề nghị bị cáo phải bồi thường đối với xe mô tô biển kiểm soát 22S1-287.20 bị thiệt hại 3.004.000 đồng. Do đó, HĐXX không xem xét.

[8] Về án phí và quyền kháng cáo bản án: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[9] Các vấn đề khác: Đối với việc Hà Văn C lấy xe mô tô nhãn hiệu HONDA Wave biển kiểm soát 22S1-287.20 của anh Lê Văn T để tham gia giao thông, anh Lê Văn T không biết nên không đề cập xử lý.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ: điểm đ khoản 2 Điều 260; điểm b, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự:

Tuyên bố Trần Thế A phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

Xử phạt bị cáo Trần Thế A 03 (ba) năm tù, cho hưởng án treo, thử thách 05 (năm) năm, thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (19/5/2020).

Giao bị cáo Trần Thế A cho UBND xã Hợp Hòa, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách của án treo.

“Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo”.

(Trong trường hợp bị cáo Trần Thế Anh thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật thi hành án hình sự).

2. Căn cứ Điều 136, 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án.

- Bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

- Bị cáo, người đại diện hợp pháp cho người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

226
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 48/2020/HS-ST ngày 19/05/2020 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

Số hiệu:48/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sơn Dương - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:19/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về