Bản án 48/2020/HSST ngày 18/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỊNH HÓA,TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 48/2020/HSST NGÀY 18/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở UBND xã LT, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 56/2020/HSST ngày 30/11/2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 48/2020/QĐXXST-HS, ngày 07/12/2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trịnh Đình Tr - Sinh năm 1994 Nơi cư trú: Xóm NC, xã LT, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên. Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ học vấn: Lớp 9/12; Dân tộc: Tày; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam.

Con ông: Trình Đình Côn - Sinh năm 1964 và bà Hg Thị Bóng - Sinh năm 1965. Gia đình bị cáo có 02 anh, chị em. Bị cáo là con thứ nhất trong gia đình. Vợ, con: Chưa có.

Tiền án, Tiền sự: Không có.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/9/2020 đến nay. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên (Có mặt tại phiên toà).

Người làm chứng:

1. Anh Hg Khải H - Sinh năm 2002.

Trú tại: Xóm NC, xã LT, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên. (Vắng mặt tại phiên tòa).

Người chứng kiến:

1. Anh Vũ Văn V - Sinh năm 1987.

Trú tại: Tổ dân phố PX, thị trấn TC, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên. (Vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ 50 phút ngày 26/9/2020, tổ công tác của Công an thị trấn Chợ Chu, huyện Đ đang làm nhiệm vụ tuần tra, kiểm soát tại khu vực tổ dân phố Phúc Xuân, thị trấn Chợ Chu huyện Đ,tỉnh Thái Nguyên thì phát hiện Trịnh Đình Tr điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Winner, màu đỏ -đen- bạc không biểu kiểm soát có biểu hiện liên quan đến ma túy nên đã yêu cầu kiểm tra và phát hiện tại túi quần bên trái phía trước Tr đang mặc có 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA 1280, không có pin và thẻ sim, bên trong điện thoại (phần lắp đặt pin) có chứa 02 gói chất bột màu trắng, được gói bằng giấy bạc màu vàng (nghi là Heroine). Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ vật chứng, niêm phong 02 gói chất bột màu trắng trong phong bì ký hiệu A1. Ngoài ra, còn tạm giữ của Tr 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Winner màu đỏ đen bạc, không có biển kiểm soát; 01 di động nhãn hiệu Iphone 6, màu trắng, số IMEL: 354434062025583.

Cùng ngày Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của bị cáo, không phát hiện, thu giữ được gì liên quan đến tội phạm.

Mở niêm phong, cân xác định trọng lượng 02 gói chất bột màu trằng thu giữ trên người bị cáo có trọng lượng 0,142g (không phảy một bốn hai gam), niêm phong lại ký hiệu A2.

Kết luận giám định số 1249/KL-KTHS, ngày 02/10/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Chất bột màu trắng thu giữ của Trịnh Đình Tr khi bắt quả tang được niêm phong trong phong bì ký hiệu A2 gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine, có khối lượng là: 0,142 gam (không phảy một bốn hai gam).

H lại đối tượng giám định theo biên bản đóng gói niêm phong và giao, nhận lại đối tượng giám định là 0,131g (không phảy một ba một gam) được niêm phong lại ký hiệu A2.

Quá trình điều tra bị cáo khai nhận: Do bản thân nghiện ma túy. Trưa ngày 26/9/2020 Tr nhận được điện thoại của Hg Khải H, nhờ Tr đi xe máy ra thị trấn Chợ Chu, huyện Đ đón H. H hẹn Tr đi ra đến thị trấn Chợ Chu thì vào quán cà phê Ngọc Hân uống nước, ai đến trước thì ngồi đợi người còn lại tại quán cà phê Ngọc Hân, sau đó sẽ cùng nhau về xã LT, huyện Đ. Khoảng 15 giờ cùng ngày, Tr điều khiển xe mô tô của mình ra thị trấn Chợ Chu, huyện Đ đón H. Khi đi Tr mang theo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 màu trằng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA 1280, không pin, bên trong điện thoại (phần lắp đạt pin) có chứa 02 gói ma túy loại heroin mục đích mang theo khi cần để sử dụng cho bản thân, nhưng chưa kịp sử dụng thì bị phát hiện và thu giữ.

Bản Cáo trạng số 55/CT-VKSĐH ngày 27/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên đã truy tố bị cáo Trịnh Đình Tr về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy", theo quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 249 BLHS.

Tại phiên tòa, bị cáo Trịnh Đình Tr khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cáo trạng của Viện kiểm sát đã nêu.

Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm như cáo trạng đã truy tố. Đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Trịnh Đình Tr phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt Trịnh Đình Tr từ 24 (hai mươi bốn) đến 30 (Ba mươi) tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam (26/9/2020).

Không đề nghị áp dụng hình phạt tiền bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng: Đề nghị áp dụng 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu huỷ: 01 (Một) bì niêm phong ký hiệu A2, bên trong có 0,131g (không phảy một ba một gam) ma túy (loại Heroin); 01 (Một) phong bì niêm phong ký hiệu A3 bên trong chứa vỏ phong bì niêm phong khi bắt quả tang và 01 điện thoại nhãn nhiệu NOKIA 1280, màu đen không có pin, số Imei:

352055/02/052515/8 của bị cáo Tr.

- Tạm giữ: 01 điện thoại di động nhãn nhiệu Iphone 6 màu trắng, số IMEL:

354434062025583 để bảo đảm thi hành án.

- Trả lại bị cáo 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Winner, không có biển kiểm soát, số máy KC34F1164516, số khung RLKHC3711LY807889 màu đỏ đên bạc đã qua sử dụng.

Đề nghị HĐXX áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội, quy định về án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên quyền kháng cáo đối với bản án.

Tại phiên toà bị cáo không có ý kiến tranh luận.

Trước khi Hội đồng xét xử nghỉ nghị án: Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào những chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; Căn cứ vào kết quả tranh lụân tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ và toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh, điều luật truy tố: Tại phiên toà bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với chứng cứ trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở để khẳng định:

Do bản thân bị cáo nghiện ma túy. Khoảng 11 giờ ngày 26/9/2020 bị cáo một mình đi xe máy đến khu vực gốc đa, cạnh Chợ Chu (đoạn đường đi từ Chợ Chu đến trạm y tế thị trân Chợ Chu) để mua ma túy của một người đàn ông không rõ lại lịch được 02 gói ma túy với số tiền 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng), khi mua được bị cáo cất giấu vào bên trong chiếc điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA 1280 không có pin, không có thẻ sim, mục đích để sử dụng cho bản thân. Chiều cùng ngày khi bị cáo ra thị trấn Chợ Chu, huyện Đ đón Hg Khải H thì bị Công an thị trấn Chợ Chu, huyện Đ kiểm tra, phát hiện. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tôi quả tang và thu giữ vật chứng, niêm phong 02 gói chất bột mầu trắng trong phong bì ký hiệu A1 và tạm giữ của bị cáo 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Winner màu đỏ đen bạc, không có biển kiểm soát; 01 di động nhãn hiệu Iphone 6, màu trắng, số IMEL:

354434062025583; 01 điện thoại nhãn nhiệu NOKIA 1280, màu đen không có pin, số Imei: 352055/02/052515/8.

Cùng ngày Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của bị cáo, không phát hiện, thu giữ gì liên quan đến tội phạm Cân xác định trọng lượng tổng 02 gói chất bột màu trằng thu giữ của Trịnh Đình Tr khi bắt quả tang có trọng lượng 0,142g (không phảy một bốn hai gam), được niêm phong lại ký hiệu A2.

Tại kết luận giám định số 1249/KL-KTHS, ngày 02/10/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Chất bột màu trắng thu giữ của Trịnh Đình Tr khi bắt quả tang được niêm phong trong phong bì ký hiệu A2 gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine, có khối lượng là: 0,142 gam (không phảy một bốn hai gam). H lại đối tượng giám định theo biên bản đóng gói niêm phong và giao, nhận lại đối tượng giám định là 0,131g (không phảy một ba một gam) được niêm phong lại ký hiệu A2.

Tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi đã thực hiện như lời khai trong quá trình điều tra và các tài liệu chúng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Hành vi nêu trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy", theo quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Điều luật có nội dung:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc .... trường hợp sau đây thì thì phạt tù từ 01năm đến 05 năm.

…..

c) Heroine ...có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05gam;

...................................

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000đ đến 500.000.000đ........ Bản cáo trạng số 55/CT-VKSĐH, ngày 27/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên đã truy tố bị cáo ra trước Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên để xét xử là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật.

[3] Về tính chất, hành vi phạm tội: Bị cáo là người trưởng thành, có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng thực hiện với lỗi cố ý. Do đó, hành vi bị cáo đã thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm hại đến các quy định của Nhà nước về quản lý các chất gây nghiện, đi ngược lại công cuộc đấu tranh phòng chống ma túy của toàn xã hội, xâm phạm đến các điều cấm được Bộ luật hình sự bảo vệ. Hành vi đó phải được xử lý bằng pháp luật hình sự.

[4] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bản thân bị cáo là người nghiện ma túy. Quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo thành khẩn khai báo nên được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS; Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

[5] Về hình phạt áp dụng đối với các bị cáo: Căn cứ vào nhân thân, tính chất của vụ án và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo. Thấy rằng, cần có hình phạt phù hợp cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian đủ dài để giáo dục bị cáo thành người có ích cho xã hội và giáo dục, phòng ngừa chung.

Bản thân bị cáo có tài sản riêng. Do vậy, cần phạt bổ sung bị cáo một khoản tiền nhất định để sung quỹ nhà nước là phù hợp và đúng pháp luật.

[6] Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo khai đã mua ma túy của một người đàn ông không rõ nhân thân, lai lịch (Không biết tên, tuổi, địa chỉ) tại khu gốc đa, cạnh Chợ chu thuộc thị trấn Chợ Chu, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên với giá 200.000đ. Cơ quan điều tra tiếp tục làm rõ và xử lý sau.

[7] Về vật chứng: 01 (Một) bì niêm phong ký hiệu A2, bên trong có 0,131g (không phảy một ba một gam) ma túy (loại Heroin); 01 (Một) phong bì niêm phong ký hiệu A3 bên trong chứa vỏ phong bì niêm phong khi bắt quả tang không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 điện thoại nhãn nhiệu NOKIA 1280, màu đen không có pin, số Imei: 352055/02/052515/8; 01 điện thoại di động nhãn nhiệu Iphone 6 màu trắng, số IMEL: 354434062025583; 01 xe môt môtô nhãn hiệu Honda Winner, không có biển kiểm soát, số máy KC34F1164516, số khung RLKHC3711LY807889 màu đỏ đen bạc đã qua sử dụng. Là tài sản của bị cáo, cần tạm giữ để bảo đảm Thi hành án.

[8] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[9] Xét đề nghị của vị Kiểm sát viên tại phiên tòa. Về tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt từ đối với bị cáo, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo là phù hợp, đúng pháp luật và cần được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 259 Bộ luật tố tụng hình sự;

Tuyên bố: Bị cáo Trịnh Đình Tr phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Áp dụng điểm c, khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự; Khoản 2 Điều 260; Khoản 1 Điều 268; Khoản 1 Điều 269; Khoản 1 Điều 298; Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Xử phạt bị cáo Trịnh Đình Tr 24 (Hai mươi bốn) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù từ ngày tạm giữ, tạm giam 26/9/2020.

Quyết định tạm giam bị cáo 45 (Bốn mươi lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án để bảo đảm thi hành án.

Phạt bổ sung bị cáo Trịnh Đình Tr 5.000.000đ (Năm triệu đồng) sung quỹ nhà nước.

Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu huỷ: 01 (Một) bì niêm phong ký hiệu A2, bên trong có 0,131g (không phảy một ba một gam) ma túy (loại Heroin); 01 (Một) phong bì niêm phong ký hiệu A3 bên trong chứa vỏ phong bì niêm phong khi bắt quả tang.

Tạm giữ: 01 điện thoại nhãn nhiệu NOKIA 1280, màu đen không có pin, số Imei: 352055/02/052515/8; 01 điện thoại di động nhãn nhiệu Iphone 6 màu trắng, số IMEL: 354434062025583; 01 xe môt tô nhãn hiệu Honda Winner, không có biển kiểm soát, số máy KC34F1164516, số khung RLKHC3711LY807889 màu đỏ đên bạc, đã qua sử dụng để bảo đảm thi hành án.

(Đặc điểm, tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận lập ngày 02/12/2020 giữa Công an huyện Đ và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ).

3. Án phí và quyền kháng cáo:

Áp dụng các Điều 135; 136; 331; 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Trịnh Đình Tr phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm. Có mặt bị cáo, báo cho biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

176
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 48/2020/HSST ngày 18/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:48/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Định Hóa - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về