Bản án 48/2020/HNGĐ-ST ngày 31/12/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PT, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 48/2020/HNGĐ-ST NGÀY 31/12/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 31 tháng 12 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện PT, Thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 216/2020/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 10 năm 2020 về Tranh chấp hôn nhân và gia đình, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 49/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 30 tháng 11 năm 2020 và theo Quyết định hoãn phiên tòa số: 33/2020/QĐST-HNGĐ ngày 15 tháng 12 năm 2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Kiều Văn V, sinh năm 1991. Địa chỉ: Thôn Thắng Đầu, xã HT, huyện QO, Thành phố Hà Nội “Có mặt”.

2. Bị đơn: Chị Nguyễn Thị Y, sinh năm 1990. Địa chỉ: Thôn Hiệp Thuận 1, xã HT, huyện PT, Thành phố Hà Nội “Vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện, nguyên đơn là anh Kiều Văn V trình bày như sau:

Anh và chị Nguyễn Thị Y kết hôn với nhau trên cơ sở tự do tìm hiểu, tự nguyện và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã HT, huyện QO, Thành phố Hà Nội vào ngày 20 tháng 02 năm 2019. Sau khi cưới, vợ chồng có thời gian chung sống hạnh phúc. Đến tháng 12/2019 chị Y mang theo con bỏ nhà đi về bố mẹ đẻ ở, anh và gia đình có gọi về nhưng chị Y nhất quyết không về. Vì chị Y bỏ đi nên cuộc sống vợ chồng không có hạnh phúc, hai vợ chồng đã sống ly thân. Nay anh thấy rằng tình cảm vợ chồng không còn nên đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị Y.

Về con chung: Vợ chồng có một con chung là cháu Kiều Nguyễn Quốc B, sinh ngày 28/8/2019; hiện nay cháu đang ở với mẹ, khi ly hôn thì anh muốn nuôi con, nhưng nếu chị Y muốn nuôi con thì anh cũng nhất trí và anh cấp dưỡng nuôi con là 2.000.000 đồng/tháng.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

- Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập Nguyễn Thị Y đến Tòa để giải quyết nhưng chị Y không có mặt Tòa án.

Tòa án đã tiến hành lấy ghi khai của chị Y tại gia đình, chị Y có quan điểm như sau: Về thời gian kết hôn như anh V trình bày là đúng. Quá trình sống với nhau chị Y thừa nhận vợ chồng có mâu thuẫn, nguyên nhân là do quan điểm sống, tính cách không hợp nhau, một phần do kinh tế gia đình khó khăn nên vợ chồng thường xẩy ra to tiếng với nhau. Từ tháng 12/2019 chị đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở, từ đó vợ chồng không quan tâm đến nhau nữa. Chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nên cũng nhất trí ly hôn.

Về con chung: Có một con chung là cháu Kiều Nguyễn Quốc B, sinh ngày 28/8/2019; hiện nay cháu đang ở với chị, khi ly hôn thì chị muốn nuôi con và không yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

Tuy nhiên sau khi ghi lời khai của chị Y và đã đọc thông qua, chị Y không ký vào biên bản.

- Tại phiên toà hôm nay, anh V vẫn giữ nguyên yêu cầu của mình.

- Kiểm sát viên phát biểu như sau: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa, người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án và tại phiên tòa đã tiến hành theo đúng trình tự của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về quan điểm giải quyết nội dung vụ án: Đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Kiều Văn V để xử cho anh V được ly hôn với chị Nguyễn Thị Y. Về con chung: Đề nghị giao cháu Kiều Nguyễn Quốc B, sinh ngày 28/8/2019 cho chị Y nuôi dưỡng; chấp nhận sự tự nguyện của anh V cấp dưỡng nuôi con chung là 2.000.000 đồng/tháng. Vê tài sản chung, công nợ chung: Không có nên không đề nghị xem xét. Về án phí: Đề nghị buộc anh V phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm, án phí cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về tố tụng: Anh Kiều Văn V và chị Nguyễn Thị Y kết hôn với nhau và có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã HT, huyện QO, Thành phố Hà Nội. Trong quá trình chung sống, anh V cho rằng do mâu thuẫn vợ chồng nên chị Y đã về nhà bố mẹ đẻ để sinh sống, cư trú tại thôn HT, xã HT, huyện PT, Thành phố Hà Nội. Nay anh V khởi kiện xin ly hôn với chị Y, Tòa án thụ lý yêu cầu của anh V là đúng trình tự theo quy định tại khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành theo đúng trình tự và quyết định đưa vụ án ra xét xử. Tại phiên tòa ngày 15/12/2020 chị Y vắng mặt, Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa và ấn định thời gian xét xử. Tòa án đã niêm yết Quyết định hoãn phiên tòa. Tại phiên tòa hôm nay, chị Y vẫn vắng mặt, Hội đồng xét xử quyết định tiếp tục xét xử vụ án là đúng trình tự theo quy định tại khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2]. Về nội dung: Anh Kiều Văn V cho rằng quá trình chung sống vợ chồng xẩy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm. Đến nay anh xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, hai người đã ly thân từ tháng 12/2019 đến nay nên xin được ly hôn với chị Y. Chị Y cho rằng vợ chồng có mâu thuẫn nên nhất trí ly hôn, tuy nhiên tại phiên Tòa chị Y vắng mặt. Xét thấy vợ chồng có mâu thuẫn, đã sống ly thân, hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, nên Tòa án chấp nhận đơn xin ly hôn của anh Kiều Văn V.

[3]. Về con chung: Anh V, chị Y có một con chung là cháu Kiều Nguyễn Quốc B, sinh ngày 28/8/2019; hiện nay cháu đang ở với chị Y, chị Y xin nuôi con và không yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con, anh V cũng xin nuôi con. Do cháu B còn nhỏ, nên giao cháu cho chị Y nuôi dưỡng, chấp nhận sự tự nguyện của anh V cấp dưỡng nuôi con là 2.000.000 đồng/tháng.

[4]. Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

[5]. Về án phí: Anh Kiều Văn V phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm, án phí cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 51, Điều 53, Điều 56, Điều 57; Điều 58 của Luật hôn nhân và gia đình. Điều 147, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội:

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Kiều Văn V. Anh Kiều Văn V được ly hôn với chị Nguyễn Thị Y.

Về con chung: Giao cháu Kiều Nguyễn Quốc B, sinh ngày 28 tháng 8 năm 2019 cho chị Y nuôi dưỡng kể từ tháng 12/2020 cho đến khi cháu B đủ 18 tuổi hoặc cho đến khi có yêu cầu mới. Anh V cấp dưỡng nuôi con chung cho chị Y mỗi một tháng là 2.000.000 (Hai triệu) đồng, kể từ tháng 12/2020 cho đến khi cháu Bảo đủ 18 tuổi hoặc cho đến khi có yêu cầu mới. Anh V có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở..

Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

Về án phí: Anh Kiều Văn V phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí ly hôn sơ thẩm và 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí cấp dưỡng nuôi con. Được trừ vào số tiÒn t¹m ứng án phí đã nộp, tại Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số: 0003258 ngày 06/10/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện PT, Thành phố Hà Nội. Anh V còn phải nộp tiếp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng .

Anh Kiều Văn V có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Chị Nguyễn Thị Y có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự, có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

266
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 48/2020/HNGĐ-ST ngày 31/12/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:48/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phúc Thọ - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:31/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về