Bản án 48/2020/HNGĐ-ST ngày 12/11/2020 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐỒNG XOÀI, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 48/2020/HNGĐ-ST NGÀY 12/11/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

 Trong ngày 12 tháng 11 năm 2020 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước, Tòa án nhân dân thành phố Đồng Xoài mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và Gia đình thụ lý số:266/2020/TLST-HNGĐ ngày 17 tháng 7 năm 2020 về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 38/2020/QĐXX-ST ngày 18 tháng 9 năm 2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Bùi Viết T, sinh năm 1978 (vắng mặt).

Bị đơn: Bà Đinh Thị Th, sinh năm 1980 (vắng mặt).

Cùng cư trú tại: ấp 2, xã Tân Thành, thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn ông Bùi Viết T trình bày: Tôi và bà Đinh Thị Th tự nguyện chung sống và kết hôn với nhau từ năm 1999, có làm thủ tục đăng ký kết hôn tại UBND xã T, huyện Đ, tỉnh B (nay là xã T, thành phố Đ, tỉnh B) ngày 28/6/1999. Thời gian đầu chúng tôi chung sống hạnh phúc nhưng đến năm 2017 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống nên vợ chồng hay gây gổ, cãi vã lẫn nhau, chúng tôi đã cố gắng hòa giải với nhau nhiều lần nhưng không được mà mâu thuẫn ngày càng trầm trọng hơn nên chúng tôi đã sống ly thân từ năm 2017 cho đến nay. Kể từ khi sống ly thân cho đến nay chúng tôi không còn quan tâm, lo lắng gì cho nhau nữa. Nay tôi nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng không thể giải quyết được, cuộc sống chung căng thẳng ngột ngạt, tình cảm của tôi đối với bà Th không còn, cuộc sống chung không còn hạnh phúc nên mong Tòa án giải quyết cho tôi được ly hôn với bà Th.

Về con chung: Trong thời gian chung sống chúng tôi có hai con chung là cháu Bùi Viết Nhật H, sinh ngày 25/5/2000 và Bùi Nhật X, sinh ngày 03/11/2004. Tôi Không yêu cầu giải quyết về con chung.

Về tài sản chung và nợ chung: Tự thỏa thuận nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn bà Đinh Thị Th vắng mặt nên không có lời trình bày.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án:

Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng khác đã tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật.

- Về quan điểm giải quyết vụ án: Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đồng Xoài đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông T, cho ông T được ly hôn với bà Th.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra công khai tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định.

[1] Về thủ tục tố tụng:

Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền của Tòa án: Xác định đây là vụ án “Ly hôn” do ông Bùi Viết T đứng đơn khởi kiện, bị đơn là bà Đinh Thị Th cư trú tại ấp 2, xã T, thành phố Đ, tỉnh B. Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 36 và Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì vụ án trên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước.

Về việc vắng mặt đương sự: Bị đơn bà Đinh Thị Th vắng mặt không có lý do, mặc dù đã được Tòa án đã tiến hành tống đạt đầy đủ các văn bản hợp lệ trong suốt quá trình tố tụng nên xem như bà Th từ bỏ quyền và lợi ích hợp pháp của mình tại Tòa. Ông Bùi Viết T có đơn xin xét xử vắng mặt. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào các Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt các đương sự theo thủ tục chung.

[2] Về nội dung vụ án:

Về quan hệ hôn nhân: Theo lời trình bày của ông T cho thấy, ông T và bà Th tự nguyện chung sống với nhau và có làm thủ tục đăng ký kết hôn tại UBND xã T, huyện Đ, tỉnh B (nay là xã T, thành phố Đ, tỉnh B) vào ngày 28/6/1999. Do đó, quan hệ hôn nhân giữa ông T và bà Th là hợp pháp.

Theo lời trình bày của ông T thì sau khi kết hôn thời gian đầu ông T và bà Th chung sống hạnh phúc nhưng đến năm 2017 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống nên vợ chồng hay gây gổ, cãi vã lẫn nhau, ông T và bà Th đã cố gắng hòa giải với nhau nhiều lần nhưng không được mà mâu thuẫn ngày càng trầm trọng hơn nên đã sống ly thân từ năm 2017 cho đến nay. Kể từ khi sống ly thân cho đến nay ông T và bà Th không còn quan tâm, lo lắng gì cho nhau nữa. Nay ông T nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng không thể giải quyết được, cuộc sống chung căng thẳng ngột ngạt, tình cảm của ông T đối với bà Th không còn, cuộc sống chung không còn hạnh phúc nên ông T mong Tòa án giải quyết cho ông được ly hôn với bà Th.

Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, bà Th vắng mặt nên không có lời trình bày. Tại Biên bản xác minh về tình trạng hôn nhân giữa ông T và bà Th thì thể hiện “Về tình trạng hôn nhân giữa ông T và bà Th như thế nào địa phương không rõ do không có biểu hiện ra bên ngoài”. Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã khuyên nhủ nhiều lần nhưng ông T vẫn giữ nguyên quan điểm và yêu cầu được ly hôn với bà Th. Cho thấy tình trạng hôn nhân giữa ông T và bà Th đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, Hội đồng xét xử cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của ông T.

Về con chung: Ông T xin rút yêu cầu giải quyết về con chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nữa, xét thấy đây là sự tự nguyện của ông T, không trái quy định pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Về tài sản chung và nợ chung: Ông T không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đồng Xoài tại phiên tòa về việc giải quyết vụ án là có căn cứ và phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[4] Về án phí Hôn nhân và Gia đình sơ thẩm: Ông T phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 28; Điều 35, 36, 39, 227, 228 và Điều 244 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 51, 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

1. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của ông Bùi Viết T về con chung.

2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Bùi Viết T về việc “Tranh chấp “Ly hôn”.

Tuyên xử:

Về quan hệ hôn nhân: Ông Bùi Viết T được ly hôn với bà Đinh Thị Th.

Về con chung, tài sản chung và nợ chung: Ông T không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

3. Về án phí Hôn nhân và Gia đình sơ thẩm: Ông Bùi Viết T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng), được khấu trừ số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tiền số 0025036 ngày 17 tháng 7 năm 2020 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước.

4. Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

253
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 48/2020/HNGĐ-ST ngày 12/11/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:48/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đồng Xoài - Bình Phước
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về