Bản án 48/2019/HSST ngày 22/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHỤC HÒA, TỈNH CAO BẰNG

BẢN ÁN 48/2019/HSST NGÀY 22/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 11 năm 2019 Tòa án nhân dân huyện Phục Hòa xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 50/2019/HSST ngày 07/11/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 62/2019/HSST-QĐTA ngày 11/11/2019 đối với bị cáo:

Phạm Ngọc B Tên gọi khác: Ngọc Sinh ngày: 19/9/1984 Tại: Thành Hà, Hải Dương Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn Hoàng Xá 2 xã Quyết Thắng huyện ThB Hà tỉnh Hải Dương.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Nghề nghiệp: không nghề; Trình độ học vấn: 9/12; Con ông: Phạm T (sinh năm 1952); Con bà: Trần Th (sinh năm 1958; Vợ, con: chưa có; Bị cáo là con cả trong gia đình có 02 B em.

Tiền án, Tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 17/9/2019 đến nay, có mặt tại phiên toà.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: ông Phạm T, trú tại: thôn H2 xã Q huyện T tỉnh Hải Dương. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 00 giờ 05 phút ngày 17/9/2019 tổ công tác Công an huyện Phục Hòa làm nhiệm vụ tuần tra kiểm soát đã tiến hành kiểm tra lưu trú tại Nhà nghỉ trọ 99 thuộc xóm Pò Tập thị trấn Tà Lùng huyện Phục Hòa tỉnh Cao Bằng phát hiện và bắt quả tang Phạm Ngọc B có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy tại phòng nghỉ trọ số 03 của Nhà nghỉ trọ 99. Vật chứng thu giữ gồm: 01 lọ nhựa màu xB bên ngoài có chữ “BigBaBol” bên trong có 04 gói nilon có chứa chất bột màu trắng, 02 chiếc điện thoại di động đã qua sử dụng, 01 chiếc xe mô tô biển kiểm soát 34B4-173.27 và 5.160.000 đồng tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam.

Tại cơ quan điều tra, Phạm Ngọc B đã khai nhận: Do bản thân nghiện ma túy nên khoảng 08 giờ ngày 15/9/2019 Phạm Ngọc B dùng điện thoại OPPO gọi cho người đàn ông tên Hưng nhà ở khu vực bãi cỏ voi thuộc xóm Pò Tập thị trấn Tà Lùng huyện Phục Hòa để mua heroine thì được Hưng đồng ý và hẹn tối nay Hưng sẽ gọi lại. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày Hưng điện thoại cho Ngọc B nói "còn chơi không? ra bãi cỏ voi" nghĩa là "còn mua heroine không, mua thì đến bãi cỏ voi mua", Ngọc B trả lời "có, cho em 1,5 triệu đồng". Sau đó Phạm Ngọc B một mình điều khiển xe máy biển kiểm soát 34B4-173.27 từ phòng trọ ở xóm Phia Khoang thị trấn Tà Lùng huyện Phục Hòa đến bãi cỏ voi thuộc xóm Pò Tập thị trấn Tà Lùng đưa cho Hưng 1,5 triệu đồng, Hưng cầm lấy tiền và chỉ tay về phía mặt đất ở gần chỗ Hưng đứng, Ngọc B cúi xuống cầm lấy 01 túi nilon màu hồng bên trong có 06 gói heroine. Mua được heroine, Ngọc B quay về phòng trọ, trong ngày 15 và 16/9/2019 Ngọc B đã đem số heroine trên ra sử dụng cho bản thân 04 lần bằng hình thức hít. Số còn lại Ngọc B cho vào chiếc lọ nhựa màu xanh rồi cất giấu ở đầu giường ngủ. Đến khoảng 18 giờ ngày 16/9/2019 do mâu thuẫn với bạn gái là Chu Thị V (trú tại huyện Đ tỉnh Thái Nguyên) nên Phạm Ngọc B đến thuê phòng số 3 của Nhà nghỉ trọ 99 thuộc xóm Pò Tập thị trấn Tà Lùng huyện Phục Hòa để ngủ và dấu chiếc lọ nhựa có chứa heroine ở đầu giường ngủ. Đến khoảng 00 giờ 10 phút ngày 17/9/2019 thì bị tổ công tác Công an huyện Phục Hòa đến kiểm tra lưu trú nhà nghỉ trọ 99 đã phát hiện và bắt quả tang Phạm Ngọc B có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Tổ công tác đã lập biên bản niêm phong: 01 lọ nhựa màu xanh bên ngoài có chữ “BigBaBol” Phạm Ngọc Khai bên trong có chứa heroine; 01 điện thoại di động OPPO và 01 điện thoại NOKIA đã qua sử dụng;

5.160.000đ, ngoài ra tạm giữ chiếc xe mô tô biển kiểm soát 34B4-173.27 để phục vụ công tác điều tra.

08 giờ ngày 17/9/2019 trước sự chứng kiến của Phạm Ngọc B, Công an và Viện kiểm sát nhân dân huyện Phục Hòa đã phối hợp với chính quyền cơ sở tiến hành mở niêm phong tang vật để cân khối lượng và niêm phong mẫu gửi giám định đối với số chất bột màu trắng ngà (nghi là ma túy) thu giữ của Phạm Ngọc B. Kết quả cân số chất bột màu trắng ngà có khối lượng là 1,21g (một phẩy hai mốt gam).

Tại bản Kết luận giám định số 244/GĐMT ngày 30/9/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Cao Bằng, kết luận về số chất bột màu trắng ngà (nghi là heroine) đã thu giữ được của Phạm Ngọc B là "Mẫu chất bột màu trắng bên trong phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy, loại: Heroine.”.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa xác định số tiền 5.160.000đ (năm triệu một trăm sáu mươi nghìn đồng) đã tạm giữ của Phạm Ngọc B không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo. Đối với xe mô tô biển kiểm soát 34B4-173.27 đăng ký mang tên Phạm T (là bố của Phạm Ngọc B), ông T cho Ngọc B mượn để đi làm, việc Ngọc B dùng xe để đi mua heroine ông T không được biết. Do vậy cơ quan điều tra đã trả chiếc xe nói trên cho ông T theo quyết định xử lý vật chứng số 23 ngày 08/10/2019 là đúng quy định của pháp luật. Ngoài ra trong đơn xin xét xử vắng mặt ông T cũng không có ý kiến gì thêm đối với chiếc xe mô tô biển kiểm soát 34B4-173.27.

Ngoài ra, do không xác định được đối tượng tên “Hưng” đã bán ma túy cho Phạm Ngọc B, nên không có căn cứ để mở rộng điều tra, xử lý.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Phạm Ngọc B về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo như Cáo trạng số 50/CT-VKS-PH ngày 07/11/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phục Hòa và luận tội đề nghị Hội đồng xét xử: áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 và điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự 2015 để xử phạt bị cáo Phạm Ngọc B từ 15 đến 18 tháng tù. Đề nghị xử lý vật chứng và buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được trB tụng công khai tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Phục Hòa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Phục Hòa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đúng quy định của pháp luật.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Do nghiện ma túy nên khoảng 20 giờ ngày 15/9/2019 Phạm Ngọc B mua 1,5 triệu đồng heroine với người đàn ông (không rõ họ tên, địa chỉ ở xóm Pò Tập thị trấn Tà Lùng huyện Phục Hòa) để sử dụng dần, số còn lại Phạm Ngọc B tàng trữ để tiếp tục sử dụng thì bị cơ quan chức năng bắt quả tang vào hồi 00 giờ 10 phút ngày 17/9/2019 tại phòng số 03 nhà nghỉ trọ 99 thuộc xóm Pò Tập thị trấn Tà Lùng huyện Phục Hòa. Kết quả cân khối lượng là 1,21 gam. Kết luận giám định là ma túy, loại: Heroine.

Như vậy, hành vi của bị cáo Phạm Ngọc B đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy’’ được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015. Cáo trạng số 50/CT-VKS-PH ngày 07/11/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phục Hòa tỉnh Cao Bằng truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy’’ là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự: bị cáo Phạm Ngọc B là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được tác hại của ma túy, bị cáo đã mua ma túy để thỏa mãn nhu cầu cá nhân, điều đó góp phần làm gia tăng các đối tượng nghiện ma túy trên địa bàn, gây ảnh hưởng đến tình hình trật tự trị an trong khu vực, bị quần chúng nhân dân lên án. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến việc quản lý của nhà nước về chất ma túy, vì vậy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm giáo dục, cải tạo bị cáo và phòng ngừa tội phạm nói chung. Tuy nhiên xét thấy bị cáo không có tiền án, tiền sự, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự 2015. Ngoài ra bị cáo có bố là ông Phạm T là thương binh hạng 2/4 và được tặng Huân chương chiến sỹ giải phóng hạng 3 (Quyết định số 95 ngày 30/11/1975 của Hội đồng cố vấn Chính phủ lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam), Huân chương chiến công hạng 3 (Nghị quyết số 5D33KT/HĐNN ngày 29/5/1984 của Hội đồng nhà nước Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam), Huy chương kháng chiến hạng nhì (Quyết định số 219KT/HĐBT ngày 12/8/1985 của Hội đồng Bộ trưởng Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam), do đó bị cáo được hưởng thêm 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự 2015. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không có. Vậy khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử sẽ xem xét.

[4] Tại phiên tòa Kiểm sát viên luận tội và đề nghị áp dụng các điều luật đối với bị cáo và xử lý vật chứng, án phí là đúng quy định pháp luật. Tuy nhiên khi đề xuất mức hình phạt tù có phần hơi nặng so với tính chất, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, vì vậy Hội đồng xét xử sẽ cân nhắc.

[5] Phần tranh luận: bị cáo không có ý kiến gì thêm.

[6] Phần nói lời sau cùng: bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo có cơ hội sửa lỗi lầm, phấn đấu trở thành công dân có ích cho xã hội, được sớm trở về với gia đình.

[7] Về xử lý vật chứng:

- 01 (một) phong bì thư ghi “số 224/GĐMT. Hoàn lại mẫu giám định vụ: Phạm Ngọc B, hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đây là chất nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu để tiêu hủy.

- 01 (một) chiếc lọ nhựa màu xanh bên ngoài có chữ “BigBaBol”. Đây là công cụ dùng vào việc phạm tội, do đó cần tịch thu để tiêu hủy.

- 01 (một) chiếc điện thoại màn hình cảm ứng màu xB, nhãn hiệu OPPO. Số IMEL1 863890043787158; số IMEL2 863980043787141. Đây là phương tiện được bị cáo sử dụng liên lạc mua ma túy, do đó cần tịch thu để phát mại sung ngân sách nhà nước.

- 01 (một) chiếc điện thoại di động đã qua sử dụng, nhãn hiệu NOKIA, bàn phím cơ màu đen. Đây là tài sản cá nhân, không liên quan đến hành vi phạm tội, vì vậy sẽ trả lại cho bị cáo. - Số tiền 5.160.000đ (năm triệu một trăm sáu mươi nghìn đồng chẵn). Đây là số tiền không liên quan đến hành vi phạm tội nên sẽ được trả lại cho bị cáo, tuy nhiên cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[8] Về án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về trách nhiệm hình sự: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249 và điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015.

- Tuyên bố bị cáo Phạm Ngọc B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Xử phạt: bị cáo Phạm Ngọc B 14 (mười bốn) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 17/9/2019.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật hình sự 2015; điểm a, b khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

- Tịch thu để tiêu hủy: 01 (một) phong bì thư ghi “số 224/GĐMT. Hoàn lại mẫu giám định vụ: Phạm Ngọc B, hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy” và 01 (một) chiếc lọ nhựa màu xanh bên ngoài có chữ “Big BaBol”.

- Tịch thu để phát mại sung ngân sách nhà nước: 01 (một) chiếc điện thoại màn hình cảm ứng màu xB, nhãn hiệu OPPO. Số IMEL1 863890043787158; số IMEL2 863980043787141.

- Trả lại cho bị cáo: 01 (một) chiếc điện thoại di động đã qua sử dụng, nhãn hiệu NOKIA, bàn phím cơ màu đen và 5.160.000đ (năm triệu một trăm sáu mươi nghìn đồng chẵn) tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam, nhưng cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Số vật chứng hiện đang được tạm giữ tại kho tang vật của Chi cục thi hành án dân sự huyện Phục Hòa.

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Điều 21, Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc bị cáo Phạm Ngọc B phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

"Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự". Án xử sơ thẩm công khai có mặt bị cáo. Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt, có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 kể từ ngày được tống đạt bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

186
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 48/2019/HSST ngày 22/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:48/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân - Cao Bằng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về