TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN LÃO, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 48/2019/HNGĐ-ST NGÀY 29/11/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 29 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở toà án nhân dân huyện An Lão tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 258/2019/TLST-HNGĐ ngày 13 tháng 9 năm 2019, về việc "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1386/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 12 tháng 11 năm 2019; Quyết định hoãn phiên tòa số 1415/2019/QĐST-HNGĐ ngày 27 tháng 11 năm 2019, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Trần Thị H; trú tại: Số nhà Y, thị trấn A, huyện A, thành phố Hải Phòng; vắng mặt tại phiên toà (có đơn xin xét xử vắng mặt).
- Bị đơn: Anh Bùi Đình Đ; trú tại: Số nhà Y, thị trấn A, huyện A, thành phố Hải Phòng; vắng mặt tại phiên toà.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 01 tháng 9 năm 2019, và các lời khai tại Tòa án nhân dân huyện An Lão chị Trần Thị H trình bày: Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị H và anh Bùi Đình Đ kết hôn với nhau trên cơ sở được tìm hiểu tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện A, thành phố Hải Phòng ngày 10 tháng 4 năm 1997. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại số nhà Y, thị trấn A, huyện A, thành phố Hải Phòng. Quá trình chung sống, thời gian đầu tình cảm vợ chồng hạnh phúc nhưng đến năm 2010 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh Đ có quan hệ bất chính với người phụ nữ khác. Chị H và gia đình anh Đ đã khuyên bảo nhiều lần nhưng không có kết quả, cuộc sống vợ chồng thường xuyên căng thẳng. Anh Đ thường xuyên lấy cớ chửi bới và đánh đập mẹ con chị H. Vợ chồng đã sống ly thân nhau mấy năm nay. Nay chị H thấy tình cảm vợ chồng không còn, vợ chồng không có khả năng đoàn tụ, nên đề nghị Tòa án nhân dân huyện An Lão giải quyết cho chị H được ly hôn anh Đ. Về con chung: Chị Trần Thị H và anh Bùi Đình Đ có 02 con chung là Bùi Đình D, sinh ngày 30 tháng 9 năm 1997 hiện đã trưởng thành; Bùi Đình Hải Đ, sinh ngày 19 tháng 4 năm 2006. Chị H đề nghị được nuôi con Bùi Đình Hải Đ và không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung: Chị H trình bày không yêu cầu toà án giải quyết.
Bị đơn anh Bùi Đình Đ trình bày: Anh Đ nhất trí với chị H về thời gian, điều kiện, hoàn cảnh kết hôn. Vợ chồng chung sống hòa thuận, tuy có phát sinh những mâu thuẫn nhưng chỉ là những mâu thuẫn nhỏ nhặt chưa đến mức phải ly hôn. Việc chị H nghi ngờ anh có quan hệ bất chính với người phụ nữ khác chỉ là tin đồn chứ thực tế không có việc đó. Nay chị H có đơn xin ly hôn anh thì anh không đồng ý, đề nghị Tòa án xử bác đơn của chị H để vợ chồng về đoàn tụ, cùng nuôi dạy con cái. Về con chung: Anh Đ nhất trí với chị H về họ, tên tuổi của các con; anh xin đoàn tụ nên không có ý kiến về con chung; trường hợp buộc phải ly hôn thì anh đề nghị được nuôi con và không yêu cầu chị H cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung vợ chồng: Anh Đ không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện An Lão, thành phố Hải Phòng tại phiên tòa phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và quan điểm giải quyết vụ án như sau:
- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã đảm bảo đúng quy định của pháp luật. Nguyên đơn chị H và bị đơn là anh Đ đã thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật.
- Về đường lối giải quyết vụ án: Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 235, Điều 271 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 19, Điều 51, Điều 53, Điều 56, Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình. Xử cho chị H được ly hôn anh Đ; về con chung: Chị H và anh Đ có 02 con chung là Bùi Đình D, sinh ngày 30 tháng 9 năm 1997 hiện đã trưởng thành; Bùi Đình Hải Đ, sinh ngày 19 tháng 4 năm 2006, đề nghị Hội đồng xét xử giao con Bùi Đình Hải Đ cho chị H nuôi, tạm hoãn việc anh Đ cấp dưỡng nuôi con; về tài sản chung: Chị H không yêu cầu giải quyết nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết; về án phí: Căn cứ vào khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, chị H phải nộp án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên toà, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:
[1] Về tố tụng: Đây là vụ án về việc ly hôn và tranh chấp nuôi con, theo quy định tại khoản 1 Điều 28 và điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì thẩm quyền giải quyết tranh chấp thuộc Tòa án nhân dân huyện An Lão, thành phố Hải Phòng. Nguyên đơn chị H có đơn đề nghị tòa án xét xử vắng mặt; bị đơn là anh Đ vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do, không có đơn đề nghị tòa án xét xử vắng mặt mặc dù Tòa án đã tống đạt hợp lệ. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn chị H và bị đơn anh Đ.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị H kết hôn với anh Bùi Đình Đ trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn ngày 10 tháng 4 năm 1997, tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện A, thành phố Hải Phòng, căn cứ vào khoản 1 Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình, đây xác định là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống trên cơ sở lời khai đương sự, biên bản xác minh của tòa án thấy: Chị Trần Thị H và anh Bùi Đình Đ đều là giáo viên chung sống hòa thuận đến năm 2010 phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân nghi ngờ nhau không chung thủy, vợ chồng thường xảy ra cãi nhau, gia đình có ý kiến khuyên giải nhưng không có kết quả, hiện tại chị H bỏ đi ở nơi khác, vợ chồng sống ly thân không quan tâm đến nhau. Xét mâu thuẫn vợ chồng chị H và anh Đ đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, yêu cầu ly hôn của chị H là có căn cứ và hoàn toàn phù hợp với quy định tại Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình nên chấp nhận.
[3] Về con chung: Chị H và anh Bùi Đình Đ có 02 con chung là Bùi Đình D, sinh ngày 30 tháng 9 năm 1997 hiện đã trưởng thành; Bùi Đình Hải Đ, sinh ngày 19 tháng 4 năm 2006. Chị H và anh Đ đều có yêu cầu được nuôi con Bùi Đình Hải Đ. Xét thấy chị H, anh Đ đều có nghề nghiệp, có thu nhập, đảm bảo được điều kiện nuôi con nhưng cháu Bùi Đình Hải Đ có đơn đề nghị được ở với mẹ. Căn cứ vào Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình, giao cho chị H được nuôi dưỡng con Bùi Đình Hải Đ theo đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là phù hợp. Về cấp dưỡng nuôi con chị H không yêu cầu nên tạm hoãn việc anh Đ cấp dưỡng nuôi con.
[4] Về tài sản chung vợ chồng: Chị H không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[5] Về án phí: Chị H phải nộp án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 235, Điều 271 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ Điều 19, Điều 51, Điều 53, Điều 56, Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình;
Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Xử:
1- Chị Trần Thị H được ly hôn anh Bùi Đình Đ.
2- Về con chung: Giao con Bùi Đình Hải Đ, sinh ngày 19 tháng 4 năm 2006 cho chị Trần Thị H nuôi đến khi con đủ 18 tuổi, hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con đối với anh Bùi Đình Đ.
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không được ai cản trở.
3. Về án phí: Chị Trần Thị H phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí chị Trần Thị H đã nộp tại biên lai số 0017366 ngày 10 tháng 9 năm 2019, của Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Lão, thành phố Hải Phòng. Chị Trần Thị H đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo bản án: Chị Trần Thị H và anh Bùi Đình Đ có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Bản án 48/2019/HNGĐ-ST ngày 29/11/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con
Số hiệu: | 48/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện An Lão - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 29/11/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về