Bản án 48/2018/HS-ST ngày 16/11/2018 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂY SƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 48/2018/HS-ST NGÀY 16/11/2018 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH ĐKPTGTĐB

Ngày 16 tháng 11 năm 2018 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 40/2018/TLST-HS ngày 31 tháng 10 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 73/2018/QĐXXST-HS ngày 31 tháng 10 năm 2018 đối với bị cáo:

Trương Thị Mỹ T, sinh ngày 27/4/1998 tại huyện TS, tỉnh Bình Định; nơi cư trú: thôn TG1, xã TG, huyện TS, tỉnh Bình Định; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hoá: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông không rõ họ tên và bà Trương Thị L, sinh năm 1966; chồng: Nguyễn Quý H, sinh năm 1991; con: 01 người Nguyễn Tuấn K, sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo Trương Thị Mỹ T: Ông Nguyễn Hữu V – Trợ giúp viên pháp lý, Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Bình Định.

- Người bị hại:

+ Ông Lê L, sinh năm 1938 (đã chết);

Người đại diện hợp pháp của bị hại ông Lê L: Bà Lê Thị L, sinh năm 1966; bà Lê Thị L, sinh năm 1967 và bà Lê Thị N, sinh năm 1971.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Phan Văn G, sinh năm 1970; Trú tại: Thôn HS, xã BT, huyện TS, tỉnh Bình Định. (có mặt). (Theo giấy ủy quyền ngày 07/8/2018)

+ Chị Trần Thị L, sinh năm 1986; (Yêu cầu xét xử vắng mặt) Trú tại: thôn TS, xã TT, huyện TS, tỉnh Bình Định.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Ông Phan Đức T, sinh năm 1955; (Yêu cầu xét xử vắng mặt). Trú tại: thôn TG 1, xã TG, huyện TS, tỉnh Bình Định.

- Người làm chứng:

+ Ông Hồ Ngọc M, sinh năm 1945; (vắng mặt)

+ Ông Lê Văn T, sinh năm 1984; (vắng mặt)

+ Ông Nguyễn Hữu Nghiệp, sinh năm 1953; (vắng mặt)

+ Ông Lâm Văn Q, sinh năm 1964; (có mặt)

Đồng trú tại: thôn HS, xã BT, huyện TS, tỉnh Bình Định.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Sáng ngày 19/7/2018, Trương Thị Mỹ T (không có giấy phép lái xe môtô hạng A1) và Trần Thị L là người làm thuê gia công ghế nhựa cho ông Phan Đức T ở TG1 – TG – TS – Bình Định đến nhà ông T để làm việc, ông T bảo T cùng chị L xuống ngã ba PT, thành phố QN sửa chữa ghế nhựa đã bán bị lỗi và đưa xe mô tô Wave màu xanh BKS: 77F4 – 9915 của ông T cho T chở L đi. Khoảng 06 giờ 45 phút cùng ngày, khi đến đoạn QL19 thuộc HS – BT – TS – Bình Định, T điều khiển xe đi với vận tốc khoảng 40km/h, đi ở phần đường phải (giữa làn đường dành cho xe cơ giới). Lúc này, T phát hiện ông Lê L (SN:1938) ở HS – BT– TS – Bình Định điều khiển xe đạp đi ở phần đường phải (giữa làn đường dành cho xe cơ giới), ở phía trước cùng chiều cách khoảng 20-30m. T giữ nguyên vận tốc và điều khiển xe môtô đi bình thường, đến khi cách ông L khoảng 4 – 5m, T tăng tốc cho xe vượt lên bên trái xe đạp nhưng không đảm bảo an toàn, đã để phần bửng chắn gió bên phải xe môtô va quẹt phần đuôi bên trái xe đạp do ông L điều khiển làm hai xe ngã trượt về trước một đoạn trên mặt đường. Hậu quả: vụ tai nạn ông L bị thương cấp cứu tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bình Định đến 16 giờ cùng ngày thì chết do chấn thương sọ não vỡ sọ, chảy máu nội sọ chèn ép não + đa chấn thương.

Dấu vết vụ tai nạn giao thông được mô tả tại biên bản khám nghiệm hiện trường, sơ đồ hiện trường, biên bản khám nghiệm phương tiện, biên bản khám nghiệm tử thi và bản ảnh.

Căn cứ Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 219/2018/PY-TT ngày 24/7/2018 của Trung tâm Pháp y tỉnh Bình Định kết luận: Nạn nhân Lê L chết do:“Chấn thương sọ não vỡ sọ, chảy máu nội sọ chèn ép não + đa chấn thương”. (BL: 30).

Quá trình điều tra, bị cáo T đã bồi thường cho gia đình nạn nhân số tiền 29.000.000 đồng. Đại diện gia đình nạn nhân đã có đơn bãi nại, xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và không yêu cầu bồi thường thêm.

Tại Bản cáo trạng số 37/CT – VKSTS ngày 29/10/2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tây Sơn đã truy tố bị cáo Trương Thị Mỹ T về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a Khoản 2 Điều 260 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tây Sơn đề nghị: Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, 54, 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Trương Thị Mỹ T từ 18 đến 24 tháng tù giam.

Về bồi thường thiệt hại: Các bên đã thỏa thuận bồi thường xong, không yêu cầu bồi thường gì thêm nên đề nghị Hội đồng xét xử không xét.

Người bào chữa cho bị cáo Trương Thị Mỹ T là ông Nguyễn Hữu V trình bày: Thống nhất về hành vi của bị cáo Trương Thị Mỹ T phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” như bản cáo trạng cũng như lời luận tội Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa. Sau khi phạm tội: Bị cáo thật thà khai báo, ăn năn hối cải và đã khắc phục xong hậu quả. Bên phía gia đình bị hại có yêu cầu giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Bị cáo có nhân thân tốt; chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo thuộc diện hộ cận nghèo, hiểu biết pháp luật còn hạn chế, gia đình hoàn cảnh khó khăn, đang nuôi con còn nhỏ.

Với nhiều tình tiết giảm nhẹ nêu trên, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản điểm a Khoản 2 Điều 260; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; 54; Điều 65 của Bộ luật hình sự năm 2015 (Sửa đổi bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo Trương Thị Mỹ T từ 18 đến 24 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. 

Bị cáo, người bào chữa, người đại diện hợp pháp gia đình bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến tranh luận về quan điểm luận tội cũng như đề nghị giải quyết vụ án của đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tây Sơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tây Sơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, đại diện người bị hại và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, đúng pháp luật.

 [2] Về tội danh và điều luật áp dụng: Tại phiên tòa, bị cáo Trương Thị Mỹ T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và công nhận cáo trạng truy tố đúng với hành vi phạm tội của bị cáo. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ và đã được thẩm vấn tại phiên tòa, HĐXX có đủ căn cứ để xác định vụ án như sau:

Khoảng 06 giờ 45 phút ngày 19/7/2018, bị cáo Trương Thị Mỹ T không có giấy phép lái xe mô tô hạng A1 điều khiển xe mô tô gắn BKS 77F4 - 9915, chở ngồi phía sau có chị Trần Thị L tham gia giao thông theo Quốc lộ 19 từ thôn TG 1, xã TG, huyện TS đi xuống ngã ba PT, thành phố QN, tỉnh Bình Định. Khi đến đoạn đường Quốc lộ 19 thuộc thôn HS, xã BT, huyện TS, bị cáo điều khiển xe mô tô tham gia giao thông thiếu chú ý quan sát, vượt xe không đảm bảo an toàn nên tông vào ông Lê L đang đi xe đạp cùng chiều phía trước theo chiều đi của bị cáo gây tai nạn giao thông làm ông L chết do chấn thương sọ não vỡ sọ, chảy máu nội sọ chèn ép não + đa chấn thương. Hành vi của bị cáo đã vi phạm vào Điều 4, khoản 9 Điều 8, khoản 1 Điều 14 Luật giao thông đường bộ năm 2008, gây hậu quả nghiêm trọng làm 01 người chết. Bị cáo thực hiện hành vi với lỗi vô ý, gây thiệt hại cho tính mạng của người khác (lỗi hoàn toàn thuộc về bị cáo). Do đó VKSND huyện Tây Sơn truy tố bị cáo về tội:“Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” quy định tại điểm a khoản 2 Điều 260 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

 [3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Bị cáo là người đã trưởng thành, nhưng lại không có giấy phép lái xe mô tô hạng A1 theo quy định, có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, lẽ ra bị cáo phải có ý thức nghiêm chỉnh chấp hành luật giao thông đường bộ nhưng bị cáo có hành vi điều khiển xe mô tô biển số 77F4 – 9915, không có giấy phép lái xe, đồng thời không chú ý quan sát, vượt xe không đảm bảo khoảng cách an toàn là nguyên nhân trực tiếp gây ra vụ tai nạn giao thông làm ông Lê L chết.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến tính mạng của người khác, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự, an toàn giao thông đường bộ ở địa phương nên cần xử lý nghiêm minh, phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo.

 [4] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Nhân thân bị cáo: Bị cáo có nhân thân tốt chưa có tiền án, tiền sự.

- Các tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

- Các tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo đã khắc phục, bồi thường xong cho gia đình nạn nhân. Đại diện gia đình người bị hại tại phiên tòa tiếp tục xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo được hưởng án treo; bị cáo thuộc diện hộ cận nghèo, hiểu biết pháp luật còn hạn chế, gia đình có hoàn cảnh khó khăn. Do đó áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt quy định tại Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015 quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật cho bị cáo, tạo điều kiện để bị cáo an tâm cải tạo tốt. Vì vậy cần chiếu cố giảm nhẹ phần nào về hình phạt cho bị cáo như mức đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tây Sơn cũng đủ tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

 [5] Về trách nhiệm dân sự:

- Bị cáo đã bồi thường cho gia đình bị hại ông Lê L 29.000.000 đồng. Tại phiên tòa đại diện gia đình bị hại không yêu cầu bồi thường gì thêm nên không xem xét giải quyết.

- Đối với bị hại chị Trần Thị L chỉ bị xây xác ngoài da nên chị L đã viết đơn từ chối giám định tỷ lệ thương tật và không yêu cầu bị cáo bồi thường gì nên không xem xét giải quyết.

 [6] Đối với hư hỏng của xe mô tô 77F4-9915 và xe đạp khung sườn màu xanh của ông L, thì ông Phan Đức T là chủ sở hữu xe mô tô và gia đình ông L đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường gì nên không xem xét giải quyết.

 [7] Đối với ông Phan Đức T là chủ sở hữu xe môtô biển sô 77F4 – 9915 có hành vi cho Trương Thị Mỹ T mượn xe mô tô tham gia giao thông nhưng ông T không biết bị cáo T không có giấy phép lái xe mô tô hạng A1 theo quy định nên không có căn cứ để xử lý về tội “Giao cho người không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện tham gia giao thông đường bộ” quy định tại Điều 264 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

 [8] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Trương Thị Mỹ T thuộc hộ cận nghèo nên được xét miễn án phí theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Tuyên bố bị cáo Trương Thị Mỹ T phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

Căn cứ vào điểm a Khoản 2 Điều 260; điểm b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51, Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017):

- Xử phạt: Bị cáo Trương Thị Mỹ T 15 (mười lăm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt đi thi hành án.

* Về án phí: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Bị cáo Trương Thị Mỹ T được miễn án phí hình sự sơ thẩm.

* Quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo và những người tham gia tố tụng có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

469
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 48/2018/HS-ST ngày 16/11/2018 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

Số hiệu:48/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tây Sơn - Bình Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:16/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về