TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN BIÊN, TỈNH KIÊN GIANG
BẢN ÁN 48/2018/HNGĐ-ST NGÀY 27/07/2018 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN, NUÔI CON CHUNG
Ngày 27 tháng 7 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 48/2018/TLST-HNGĐ ngày 14 tháng 3 năm 2018 về việc tranh chấp “Xin ly hôn và nuôi con chung”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 73/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 22 tháng 6 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 42/2018/QĐST-HNGĐ ngày 10 tháng 7 năm 2018, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Trần Thị M (tên gọi khác M1), sinh năm 1979
2. Bị đơn: Anh Đỗ Văn S, sinh năm 1977
Cùng địa chỉ: Ấp B, xã N T, huyện A, tỉnh Kiên Giang.
(Chị M có mặt tại phiên tòa, anh S vắng mặt tại phiên tòa).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và những ý kiến tại Tòa án chị Trần Thị M (M1) trình bày như sau:
Chị Trần Thị M (M1) và anh Đỗ Văn S chung sống với nhau năm 1998, vợ chồng không có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán ở địa phương nhưng có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã N T, huyện A, tỉnh Kiên Giang. Vợ chồng sống hạnh phúc được khoảng 07 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh S không lo làm ăn, thường xuyên nhậu nhẹt về đánh đập vợ con, còn có mối quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác chị đã khuyên nhiều lần để mong anh S sửa đổi để vợ chồng sống hạnh phúc lo cho con nhưng anh S không sửa đổi mà tính nào tật nấy, nên vợ chồng xuyên cự cải, hôn nhân không hạnh phúc, nên vợ chồng đã thật sự ly thân từ năm 2013 cho đến nay.
Về con chung: Vợ chồng có 01 người con tên Đỗ Hoàng Đ, sinh ngày 18/8/2000, hiện Đỗ Hoàng Đ chị Đ nuôi dưỡng. Khi ly hôn chị vẫn tiếp tục nuôi con chung và không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung đối với anh S vì Đỗ Hoàng Đ mặc dù về giấy khai sinh chưa được 18 tuổi nhưng thực tế đã trưởng thành.
Về tài sản và nợ chung: Không có, không yêu cầu tòa án giải quyết. Ngoài ra chị M không yêu cầu gì thêm.
Bị đơn anh Đỗ Văn S đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải (02 lần), nhưng anh S không hợp tác và cũng không trình bày ý kiến của mình nên Tòa án không tiến hành hòa giải được và đưa vụ án ra xét xử vụ án theo thủ tục chung.
Ý kiến của cháu Đỗ Hoàng Đ: Cháu sinh ngày 18/3/2000 nhưng trong quá trình làm giấy thì mẹ cháu (Trần Thị M) có khai nhầm là cháu sinh ngày 18/8/2000, nhưng thực tế cháu đã trưởng thành đủ 18 tuổi. Từ khi cha mẹ cháu sống ly thân, thì cháu sống với mẹ (Trần Thị M). Nay cha mẹ cháu ly hôn cháu có nguyện vọng tiếp tục ở với mẹ nhưng hiện tại cháu đã trưởng thành đủ 18 tuổi nên không yêu cầu gì trong vụ án này.
Tài liệu, chứng cứ liên quan đến vụ án gồm: Đơn khởi kiện xin ly hôn; trích lục kết hôn; giấy chứng minh nhân dân và sổ hộ khẩu; giấy khai sinh tên Đỗ Hoàng Đ; đơn xác nhận tình trạng cư trú của đương sự; biên bản ghi lời khai của đương sự; đơn xác minh ngày 17/5/2018.
Kết quả thu thập chứng cứ:
Theo các biên bản xác minh ngày 17/5/2018 làm việc với đại diện Ban lãnh đạo ấp B cho thấy chị M và anh S chung sống với nhau năm 1998, vợ chồng có 01 con chung tên Đỗ Hoàng Đ; và làm việc với người thân của anh S, thì được biết chị M và anh S sống ly thân hơn 02 năm nay, nguyên nhân là do vợ chồng không hợp nhau, thường xuyên cự cải, bất hòa hôn nhân không hạnh phúc, vợ chồng có 01 đứa con tên Đỗ Hoàng Đ hiện đã trưởng thành.
Tại phiên tòa hôm nay:
Chị M giữ nguyên yêu cầu, ý kiến như đã trình bày trên. Anh S vắng mặt nên không có ý kiến.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện An Biên phát biểu quan điểm:
- Về thủ tục tố tụng: Từ khi thụ lý cho đến khi đưa vụ án ra xét xử và tại phiên tòa hôm nay, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký và các bên đương sự đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
- Về nội dung: Xét thấy yêu cầu xin ly hôn, nuôi con chung của chị Trần Thị M đối với anh Đỗ Văn S là có căn cứ chấp nhận theo quy định tại các Điều 51 Luật hôn nhân và gia đình.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Chị M xin ly hôn với anh S, các đương sự có nơi cư trú trên địa bàn huyện An Biên. Căn cứ vào các Điều 28, 35 và 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang.
[2] Về thủ tục tố tụng: Sau khi vụ án được thụ lý, Tòa án đã giao các văn bản tố tụng hợp lệ cho các đương sự, thông báo về việc thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải (02 lần), quyết định đưa vụ án ra xét xử và quyết định hoãn phiên tòa nhưng anh S vắng mặt không lý do nên Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt anh S theo thủ tục chung.
[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị M và anh S cưới nhau vào năm 1998, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã N T, huyện A, tỉnh Kiên Giang theo giấy Chứng nhận kết hôn số 89/2003 ngày 19/9/2003 nên hôn nhân của anh chị là hợp pháp;
Qúa trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa chị M xin được ly hôn với anh S, do vợ chồng sống không hợp nhau, bất đồng quan điểm sống nên thường xuyên cự cải, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng không thể hàn gắn được, anh chị đã ly thân từ năm 2013 cho đến nay. Còn anh S thì trong suốt quá trình giải quyết vụ án đã được Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng và thông báo hòa giải hợp lệ nhiều lần đến Tòa án để tiến hành hòa giải, hàn gắn tình cảm, trở về đoàn tụ nhưng anh S không hợp tác và cũng không trình bày ý kiến gì gửi đến Tòa án đối với yêu cầu xin ly hôn của chị M;
Tuy nhiên, qua xác minh ngày 17/5/2018 ý kiến của đại diện Ban lãnh đạo ấp và người thân của anh S đã xác định, trong quá trình vợ chồng chị M anh S chung sống thì anh chị thường xuyên cự cải, bất hòa đời sống hôn nhân không hạnh phúc nên vợ chồng đã sống ly thân từ mấy năm nay (Bút lục 37, 38). Tại phiên tòa hôm nay, chị M cương quyết xin ly hôn với anh S. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy hôn nhân giữa chị M và anh S đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Hội đồng xét xử thấy yêu cầu xin ly hôn của chị M là có căn cứ chấp nhận theo quy định tại các Điều 51 và Điều 56 của Luật hôn nhân gia đình năm 2014.
[4] Về con chung và cấp dưỡng nuôi con: Chị M và anh S có 01 người con chung tên Đỗ Hoàng Đ, sinh ngày 18/8/2000. Tại tòa, chị M xác định cháu Đ hiện Đ sống với chị và chị sẽ tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục, không yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con chung do là mặc dù giấy khai sinh ghi ngày sinh 18/8/2000 nhưng thực tế cháu Đ sinh ngày 18/3/2000, đồng thời cháu cũng đã có việc làm cùng chị. Xét ý kiến chị M cho thấy, căn cứ theo giấy khai sinh thì cháu Đ gần đủ 18 tuổi, theo ngày sinh thực tế thì đã trưởng thành, còn ý kiến cháu Đ cho rằng đã trưởng thành và sẽ tiếp tục sống cùng chị M và không yêu cầu gì đối với anh S nên Hội đồng xét xử không đề cập xem xét giải quyết.
[5] Về tài sản chung và nợ chung: Chị M xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không đề cập xem xét giải quyết.
[6] Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Căn cứ Điều 144 và Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 Nghị quyết quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án. Do chị Mẳng là nguyên đơn nên chịu toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm.
[7] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát: Về thủ tục tố tụng và nội dung vụ án là có căn cứ chấp nhận theo quy định các Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83 và 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 như đã nhận định trên.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83 và 84 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014; khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 144, Điều 147, khoản 2 Điều 227, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.
Tuyên xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho ly hôn giữa chị Trần Thị M (M1) và anh Đỗ Văn S.
Giấy chứng nhận kết hôn số 89 do Uỷ ban nhân dân xã N T, huyện A, tỉnh Kiên Giang cấp ngày 19/9/2003 đương nhiên hết hiệu lực kể từ ngày bản án ly hôn của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
2. Về con chung: Chị M và anh S có 01 người con chung tên Đỗ Hoàng Đ, sinh ngày 18/8/2000, hiện Đ sống với chị và chị sẽ tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục, không yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không đề cập xem xét giải quyết.
3. Về tài sản chung và nợ chung: Chị M khai nhận không có, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết trong vụ án này.
4. Về án phí hôn nhân sơ thẩm:
Chị Trần Thị M có nghĩa vụ nộp tiền án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng), nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đ theo biên lai thu số 0001437 ngày 14/3/3018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang. Vậy chị M đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.
5. Quyền kháng cáo:
Án xử công khai, đương sự có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được tống đạt hợp lệ.
Trường hợp Bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành bản án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 48/2018/HNGĐ-ST ngày 27/07/2018 về tranh chấp xin ly hôn, nuôi con chung
Số hiệu: | 48/2018/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện An Biên - Kiên Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 27/07/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về