Bản án 48/2017/HSST ngày 15/12/2017 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỘC BÌNH, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 48/2017/HSST NGÀY 15/12/2017 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH ĐKPTGTĐB

Ngày 15 tháng 12 năm 2017 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 53/2017/HSST ngày 17 tháng 11 năm 2017 đối với:

Bị cáo Sầm Văn T; sinh ngày 15 tháng 02 năm 1982 tại huyện L, tỉnh Lạng Sơn. Nơi cư trú: Thôn K, xã T, huyện L, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Nùng; con ông: Sầm Văn C, sinh năm1937 và bà: Chu Thị N (đã chết); có vợ là Phan Thị S, sinh năm 1981; có 02con, con lớn sinh năm 2008, con nhỏ sinh năm 2011; tiền sự: Không; tiền án: Không. Bị cáo bị bắt giam từ ngày 12/9/2017 đến ngày 29/9/2017 được ápdụng biện pháp cho bảo lĩnh, hiện tại ngoại, có mặt.

Người bị hại: Bà Hoàng Thị B, sinh năm 1978 (đã chết). Nơi cư trú: Thôn K, xã T, huyện L, tỉnh Lạng Sơn.

Người đại diện hợp pháp của bà Hoàng Thị B

1. Ông Sầm Văn Đ, sinh năm 1978. Là chồng của bà Hoàng Thị B.

2. Cháu Sầm Văn P, sinh năm 2000.

2. Cháu Sầm Văn L, sinh năm 2003.

4. Cháu Sầm Văn B, sinh năm 2006.

Là con trai của bà Hoàng Thị B

Đều cư trú tại: Thôn K, xã T, huyện L, tỉnh Lạng Sơn.

5. Bà Lành Thị D, sinh năm 1935. Là mẹ đẻ của bà Hoàng Thị B. Nơi cư trú: Thôn B, xã T, huyện L, tỉnh Lạng Sơn.

Ông Sầm Văn Đ, sinh năm 1978. Nơi cư trú: Thôn K, xã T, huyện L, tỉnh Lạng Sơn. Là người đại diện theo ủy quyền của bà Lành Thị D, cháu Sầm Văn P, cháu Sầm Văn L và cháu Sầm Văn B (Giấy ủy quyền lập ngày 10/10/2017), vắng mặt.

NHẬN THẤY

Bị cáo Sầm Văn T bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn truy tố về hành vi phạm tội như sau: Khoảng 17 giờ 30 phút, ngày 30 tháng 7 năm 2017, tại km 15 + 950 thuộc địa phận thôn K, xã T, huyện L, tỉnh Lạng Sơn, bị cáo Sầm Văn T có giấy phép lái xe hạng C theo quy định, điều khiển xe ô tô biển số 11C – 00673 lùi xe không quan sát nên xe ô tô đã va vào xe mô tô biển kiểm soát 12L1 – 09415 (do Sầm Văn P điều khiển chở đằng sau Sầm Văn L và bà Hoàng Thị B) vi phạm khoản 1 Điều 16 Luật giao thông đường bộ gây tại nạn đối với bà Hoàng Thị B, hậu quả làm bà Hoàng Thị B đã bị tử vong, xe mô tô của bà Hoàng Thị B bị hư hỏng trị giá 1.730.000 đồng.

Công tác khám nghiệm hiện trường cho thấy: Hiện trường xảy ra tai nạn giao thông tại km 15 + 950 đường tỉnh lộ 237 thuộc địa phận thôn K, xã T, huyện L, tỉnh Lạng Sơn, hiện trường được đo theo hướng Quốc lộ 4B đi bản C, xã T, huyện L. Đoạn đường xảy ra tai nạn là đoạn đường thẳng, tầm nhìn không bị che khuất. Mặt đường rộng 07m, lề đường bên phải rộng 0,75m, bên trái đường là rãnh mương rộng 1,34m, sâu 0,3m. Mốc cố định hiện trường là cột H9/15 bên ngoài lề đường bên phải. Dấu vết trên hiện trường: (1) Tử thi nạn nhân nằm ngửa hơi chếch về bên trái, đầu hướng Quốc lộ 4B, chân hướng bản C, đầu tử thi cách mép đường trái 1,55m, chân cách mép đường trái 2,32m, cách mũi bàn chân phải tử thi 1,30m về hướng bản C là trục bánh sau của xe ô tô biển kiểm soát 11C – 00673 được đánh số (2) trên hiện trường. (2) Xe ô tô kiểm biểm soát 11C – 00673 đỗ thẳng trên mặt đường, đầu xe hướng bản C, đuôi xe hướng Quốc lộ 4B, trục bánh trước bên trái cách mép đường trái là03m, trục bánh sau bên trái cách mép đường trái là 2,4m. Cách trục bánh sau bên phải xe ô tô tải biển kiểm soát 11C – 00673 khoảng cách 4,07m về hướngQuốc lộ 4B là trục bánh trước của xe mô tô biển kiểm soát 12L1 – 09415 được đánh số (3) trên hiện trường. (3) Xe mô tô biển kiểm soát 12L1 – 09415 được dựng thẳng trên phần đường bên phải, đầu xe hướng bản C, đuôi xe hướng Quốc lộ 4B, trục bánh trước cách mép đường bên trái là 4,40m, trục bánh sau cách mép đường bên trái là 4,14m. Cách trục bánh trước xe mô tô biển kiểm soát 12L1 – 09415 khoảng cách 2,04m chếch ra giữa đường hướng bản C là điểm cuối của vết cày xước trượt được đánh số (4) trên hiện trường. Vết cày trượt trên mặt đường trượt hướng bản C – Quốc lộ 4B có diện dài là 0,4m, rộnglà 0,3m. Điểm đầu vết (4) cách mép đường bên trái là 3,98m, điểm cuối cách mép đường bên trái là 3,26m. Cách điểm đầu vết (4)khoảng cách 2,63m chếch sang mép đường bên trái hướng bản C là trục bánh trước bên trái của xe ô tô tải biển kiểm soát 11C – 00673. Cách điểm cuối của vết số (4) khoảng cách 1,77m sang mép đường bên trái là đầu của nạn nhân (1). Cách trục bánh sau xe mô tô biển kiểm soát 12L1 – 09415 khoảng cách 53,96m về hướng Quốc lộ 4B là cột H9/15 bên ngoài lề đường bên phải. Mở rộng hiện trường ra các hướng không phát hiện thêm dấu vết gì.

Tiến hành khám nghiệm phương tiện xe ô tô tải biển kiểm soát 11C –00673 có các dấu vết sau: Mặt trong lốp trong trục sau bên phải có vết mài sạch bụi diện 11cm x 10cm. Mặt trong lốp trong trục sau bên phải có bám chất liệu màu đỏ diện 09cm x 06cm. Mặt trong lốp trong trục sau bên trái có vết mài sạch bụi màu đen diện 20cm x 04cm. Trục quả đào bên trái có bám chất liệu màu đen diện 10cm x 03cm. Phía sau, mặt dưới pông cầu sau có nhiều vết xước sạch bụi màu đen có diện 40cm x 30cm.

Tiến hành khám nghiệm phương tiện xe mô tô tải biển kiểm soát 12L1 –09415 có các dấu vết sau: Càng điều khiển cong vênh từ phải qua trái. Ốp nhựa đèn chiếu sáng, đèn chiếu sáng có nhiều vết mài xước, nứt, vỡ có diện 28cm x15cm. Đầu tay hãm gẫy rời. Kính đèn tín hiệu phía trước bên phải nứt, vỡ diện 15cm x 04cm. Yếm phải vỡ rời. Ốp nhựa sườn phải vỡ diện 45cm x 10cm. 1/2 chắn bùn trước nứt, vỡ diện 40cm x 20cm. Ốp ngoài ống xả (bô) bám nhiều bùn đất diện 15cm x 10cm. Đầu tay nắm bên trái bám bùn đất diện 2,5cm x 2,5cm. Mặt ngoài yếm trái có nhiều vết mài xước bám bùn đất diện 60cm x 14cm. Giá để chân trước bên trái cong dồn từ dưới lên trên, từ sau ra trước, bám bùn đất. Tay nắm sau bên trái có vết mài xước bám bùn đất diện 12cm x 03cm. Ốp nhựa sườn thân xe bên trái có nhiều vết mài xước bám bùn đất diện 50cm x 10cm. Mặt ngoài giá để chân sau bên trái có bám bùn đất diện 10cm x 04cm.

Công tác khám nghiệm tử thi bà Hoàng Thị B thể hiện: Kiểm tra vùng đầu, mặt, cổ phát hiện thấy toàn bộ vùng đầu, cổ, mặt biến dạng. Vùng đầu có vết thương rách da cơ từ vùng trán phải qua đỉnh đầu tới chẩm trái vết có diện19 x 08cm, lộ xương hộp sọ. Vùng thái dương phải có vết thương rách da cơ, diện 07 x 03cm, vết làm lộ xương hộp sọ. Vùng trán phải phía trên cung mày phải có vết thương rách da cơ xuống đến gò má phải, diện 09 x 04cm. Tai phải có vết thương rách, lóc từ đỉnh tai phải xuống đến trước ống tai ngoài diện 03 x01cm. Vùng cổ phải có mảng trầy xước da, diện 17 x 19cm. Vùng đuôi mắt trái có vết thương rách da cơ, diện 4,5 x 01cm. Tai phải có vết thương rách vùng dái tai, vết dài 02cm. Vùng bụng phía trên rốn có vết sây xước, diện 4,5 x 03cm. Chân phải biến dạng vùng cổ xương đùi, sờ nắn thấy lạo xạo xương dưới tay. Vùng khoeo chân phả có vết thương rách lóc da cơ, diện 17 x 05cm.

Tại Bản giám định kỹ thuật số 58/GĐKT-ĐK ngày 26/8/2017 của Công ty cổ phần đăng kiểm xe cơ giới tỉnh Lạng Sơn kết luận: Xe mô tô biển kiểm soát 12L1 – 09415 trước khi xảy ra tai nạn các hệ thống an toàn của xe đầy đủ, hoạt động bình thường và đảm bảo an toàn kỹ thuật. Xe ô tô biển kiểm soát 11C– 00673 trước khi xảy ra tai nạn, các hệ thống an toàn của xe đầy đủ, hoạt động bình thường và đảm bảo an toàn kỹ thuật.

Tại bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 97/2017/TT ngày 16/8/2017 của Trung tâm pháp y tỉnh Lạng Sơn kết luận: Nguyên nhân chết của bà Hoàng Thị B: Chấn thương sọ não kín, vỡ lún xương hộp sọ vùng trán thái dương đỉnh phải do tương tác với vật tày có trọng lực và quán tính lớn.

Tại Kết luận định giá tài sản số 09/KL-HĐĐGTS ngày 28/9/2017 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự xác định: Giá trị thiệt hại của xe mô tô biển kiểm soát 12L1 – 09415 là 1.730.000 đồng.

Tại Bản cáo trạng số 53/KSĐT-TA, ngày 15 tháng 11 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Sầm Văn T có hành vi phạm tội và lý lịch nêu trên ra trước Toà án nhân dân huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn để xét xử về tội "Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ" theo quy định tại khoản 1 Điều 202 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà bị cáo Sầm Văn T thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân như nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Bản thân bị cáo là em trai ruột của chồng của nạn nhân. Sau khi sự việc xảy ra bị cáo đã cùng gia đình lo mai táng cho người bị hại và khắc phục hậu quả, bồi thường số tiền 25.000.000 đồng cho gia đình người bị hại. Bị cáo xin được hưởng án treo, cải tạo tại địa phương để có cơ hội sửa chữa lỗi lầm, tiếp tục đi làm, giúp đỡ gia đình người bị hại chăm sóc con cái.

Những người đại diện hợp pháp của người bị hại đã ủy quyền cho ông Sầm Văn Đ tại cơ quan điều tra và Đơn đề nghị xét xử vắng mặt cho biết: Chiều tối ngày31/7/2017, bà Hoàng Thị B (là vợ của ông) cùng hai người con đi xe mô tô biển kiểm soát 12L1 – 09415 do Sầm Văn P điều khiển đi đến km 15 + 950 đường tỉnh lộ 237 thuộc địa phận thôn K, xã T, huyện L, tỉnh Lạng Sơn thì xảy ra tai nạn giao thông với xe ô tô biển kiểm soát 11C-00673 do Sầm Văn T điều khiển làm bà Hoàng Thị B bị tử vong. Bản thân bị cáo là người thân của bà Hoàng Thị B (là em chồng của bà Hoàng Thị B). Sau khi sự việc xảy ra bị cáo đã cùng gia đình lo mai táng cho bà Hoàng Thị B và bồi thường với tổng số tiền là 25.000.000 đồng. Nay gia đình người bị hại không có yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm. Gia đình người bị hại đề nghị xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và cho bị cáo được hưởng án treo, cải tạo ngoài xã hội.

Tại phiên toà hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn trong phần tranh luận vẫn giữ nguyên quyết định đã truy tố đối với bị cáo về tội "Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ" và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Sầm Văn T phạm tội "Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ" . Áp dụng khoản 1 Điều 202; điểm b, p khoản 1, 2 Điều 46; Điều 33 của Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Sầm Văn T từ 12 đến 18 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Về trách nhiệm dân sự đã bồi thường xong nên không xem xét. Về xử lý vật chứng: Trả lại cho bị cáo Sầm Văn T 01 giấy phép lái xe hạng C mang tên Sầm Văn T; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô biển kiểm soát 11C – 00673 mang tên Đàm Văn H; 01 giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường của xe ô tô biển kiểm soát 11C – 00673; 01 giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe ô tô mang tên Đàm Văn H. Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên; bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

XÉT THẤY

Lời khai của bị cáo trước phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra; phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường vụ tai nạn giao thông, sơ đồ hiện trường vụ tai nạn giao thông, biên bản khám nghiệm phương tiện, bản kết luận giám định pháp y về tử thi và những chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, có đủ cơ sở để khẳng định: Khoảng 17 giờ 30 phút, ngày 31 tháng 7 năm 2017, bị cáo Sầm Văn T có giấy phép lái xe theo quy định điều khiển xe ô tô tải biển kiểm soát 11C - 00673 đi theo hướng tỉnh lộ 237 hướng thị trấn L, xã T, huyện L, tỉnh Lạng Sơn. Khi đi đến km 15 + 950 đường tỉnhlộ 237 thuộc địa phận thôn K , xã T, huyện L, tỉnh Lạng Sơn thì gặp ô tô đi ngược chiều nên bị cáo dừng xe, đồng thời cho lùi xe không quan sát nên xe ô tô đã va vào xe mô tô biển kiểm soát 12L1 – 09415 hậu quả bà Hoàng Thị B đã bị tử vong, xe mô tô bị hư hỏng trị giá 1.730.000 đồng. Nguyên nhân xảy ra vụ tai nạn giao thông là do bị cáo điều khiển phương tiện giao thông thiếu quan sát trước khi lùi xe vi phạmkhoản 1 Điều 16 Luật giao thông đường bộ. Khoản 1 Điều 16 Luật giao thông đườngbộ quy định: … 1. Khi lùi xe người điều khiển phải quan sát phía sau, có tín hiệu cần thiết và chỉ khi nào không nguy hiểm mới được lùi….. Với hành vi trên, việc truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Vì vậy, có đủ cơ sở kết luận bị cáo Sầm Văn T đã phạm tội "Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ" theo quy định tại khoản 1 Điều 202 của Bộ luật Hình sự.

Hành vi phạm tội của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo đã có một thời gian học Luật giao thông đường bộ và được cấp giấy phép lái xe ô tô hợp lệ; bị cáo có đầy đủ khả năng nhận thức việc chấp hành nghiêm chỉnh luật giao thông đường bộ mỗi khi điều khiển xe để được an toàn. Nhưng khi điều khiển xe ô tô tham gia giao thông bị cáo không chấp hành nghiêm Luật giao thông đường bộ đã gây thiệt hại cho tính mạng, tài sản của người khác, hậu quả làm bà Hoàng Thị B bị tử vong và bị thiệt hại về tài sản 1.730.000 đồng. Hành vi phạm tội của bị cáo cần xử lý nghiêm minh đúng theo pháp luật nhằm giáo dục bị cáo và có tác dụng phòng ngừa chung đối với mọi người dân khi tham gia giao thông.

Để có mức án thỏa đáng ngoài việc xem xét tính chất, mức độ nguy hiểm hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, cần phải xem xét đến nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.

Xét về nhân thân: Bị cáo là người đã trưởng thành, người chưa có tiền án,tiền sự; phạm tội lần đầu.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại phiên toà hôm nay cũng như trong quá trình điều tra bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về việc làm mà mình đã gây ra. Đây là 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự bị cáo được hưởng theo quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự. Bị cáo đã cùng gia đình người bị hại lo mai táng, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra (bồi thường số tiền 25.000.000 đồng). Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự bị cáo được hưởng theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự. Ngoài ra, bị cáo là người dân tộc Nùng, sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế khó khăn, được hưởng quyền trợ giúp pháp lý theo quy định; gia đình người bị hại có đơn đề nghị xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và cho bị cáo được hưởng án treo, cải tạo ngoài xã hội. Nên bị cáo được hưởng thêm các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Không có.

Bị cáo Sầm Văn T có nhân thân tốt, ngoài lần phạm tội này luôn tôn trọng các quy tắc xã hội, chấp hành đúng chính sách pháp luật, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của công dân nơi cư trú; không vi phạm các điều mà pháp luật cấm; chưa bao giờ bị kết án, bị xử lý vi phạm hành chính, bị xử lý kỷ luật; có nơi thường trú cụ thể, rõ ràng; có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại khoản 1, 2 Điều 46 của Bộ luật Hình sự; không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; trong thời gian tại ngoại vừa qua không có hành vi bỏ trốn hay vi phạm pháp luật; có khả năng tự cải tạo và nếu không bắt đi chấp hành hình phạt tù thì không gây ảnh hưởng xấu đến cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Xét thấy không cần bắt bị cáo phải chấp hành hình phạt tù, chưa cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà cho bị cáo hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách. Giao bị cáo cho Uỷ ban nhân dân nơi đang cư trú để giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách.

Xét các con bị cáo còn nhỏ, bản thân bị cáo đang là lao động chính trong nhà cần phải tiếp tục đi làm để nuôi sống bản thân và gia đình nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Tại phiên toà hôm nay đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn đã đề nghị mức hình phạt với bị cáo. Đề nghị này Hội đồng xét xử sẽ xem xét và quyết định trên cơ sở các quy định của pháp luật.

Đối với Sầm Văn P là người không có giấy phép lái xe nhưng đã điều khiển phương tiện xe mô tô chở Sầm Văn L và bà Hoàng Thị B (cả 3 người không đội mũ bảo hiểm) đi phía sau xe ô tô của bị cáo. Sầm Văn P không kịp thời xử lý tình huống đang xảy ra dẫn đến một phần lỗi vụ tai nạn nhưng lỗi của Sầm Văn P do gặp sự kiện bất ngờ, không trực tiếp gây ra hậu quả làm bà Hoàng Thị B tử vong nên Cơ quan điều tra không xem xét trách nhiệm hình sự mà ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an toàn giao thông đường bộ. Hội đồng xét xử thấy phù hợp với quy định của pháp luật nên không xem xét.

Đối với nạn nhân Hoàng Thị B giao xe mô tô cho Sầm Văn P là người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện giao thông đường bộ. Do nạn nhân đã tử vong nên không truy cứu trách nhiệm hình sự.

Đối với những vật chứng gồm có 01 ô tô biển kiểm soát 11C – 00673 (đăng ký mang tên Đàm Văn H nhưng Đàm Văn H đã chuyển nhượng chiếc xe này cho người khác vào năm 2015. Việc chuyển nhượng có làm giấy tờ nhưng chưa hoàn tất các thủ tục pháp lý theo quy định. Nay bị cáo là người chủ sở hữu, quản lý và sử dụng chiếc xe này); 01 mô tô biển kiểm soát 12L1 – 09415 cùng một số giấy tờ xe kèm theo mang tên Hoàng Thị B đã được cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lộc Bình trả lại cho các chủ sở hữu trước khi vụ án được đưa ra xét xử nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Hiện vật chứng chuyển giao cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện L, tỉnh Lạng Sơn theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 16/11/2017 gồm: 01 giấy phép lái xe hạng C số 310164840092 mang tên Sầm Văn T; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô biển kiểm soát 11C – 00673 số 00097 mang tên Đàm Văn H; 01 giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường số 1359137 của xe ô tô biển kiểm soát 11C – 00673; 01 giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe ô tô số A0312479 mang tên Đàm Văn H. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 76 của Bộ luật Tố tụng hình sự, cần tuyên trả lại cho bị cáo các giấy tờ này.

Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Gia đình người bị hại xác nhận bị cáo Sầm Văn T đã bồi thường xong, nay gia đình người bị hại không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định. Bị cáo, đại diện hợp pháp của người bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn luật định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Sầm Văn T phạm tội "Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ".

Áp dụng khoản 1 Điều 202; điểm b, p khoản 1, 2 Điều 46; khoản 1, 2 Điều 60 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Sầm Văn T 18 (mười tám) tháng tù; cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 36 (ba mươi sáu) tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm là ngày 15 tháng 12 năm 2017.

Giao bị cáo Sầm Văn T cho Uỷ ban nhân dân xã T, huyện L, tỉnh Lạng Sơn để giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự.

2. Về xử lý vật chứng

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 76 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Trả lại cho bị cáo Sầm Văn T: 01 giấy phép lái xe hạng C số 310164840092 mang tên Sầm Văn T; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô biển kiểm soát 11C - 00673 số 00097 mang tên Đàm Văn H; 01 giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường số 1359137 của xe ô tô biển kiểm soát 11C – 00673; 01 giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe ô tô số A0312479 mang tên Đàm Văn H.

(Tang vật trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện L,tỉnh Lạng Sơn theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 16 tháng 11 năm 2017).

3. Về án phí

Áp dụng khoản 2 Điều 99 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khoá 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Bị cáo Sầm Văn T phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm để sung quỹ Nhà nước.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người đại diện hợp pháp của người bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

477
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 48/2017/HSST ngày 15/12/2017 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

Số hiệu:48/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lộc Bình - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/12/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về