Bản án 48/2017/HSST ngày 14/07/2017 về tội cố ý gây thương tích

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN BIÊN, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 48/2017/HSST NGÀY 14/07/2017 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 14/7/2017 tại khu vực Lễ hội huyện T, thuộc khu phố K, thị trấn T, huyện B, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm lưu động công khai vụ án hình sự thụ lý số 35/2017/HSST ngày 26/5/2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 45/2017/QĐXX - ST ngày 03/7/2017 đối với các bị cáo:

1. Lê Chí T, sinh năm 1980 tại tỉnh Tây Ninh; nơi cư trú: Ấp S, xã D, huyện B, tỉnh Tây Ninh; số CMND 290679452; nghề nghiệp: Làm mướn; trình độ văn hóa: 9/12; con ông Lê Văn S và bà Hồ Thị H; có vợ Nguyễn Thị L và 02 con, lớn sinh năm 2003, nhỏ sinh năm 2006; tiền sự; tiền án: Không; bị bắt tạm giam từ ngày 24/3/2017 cho đến nay.

2. Nguyễn Văn H (tự U), sinh năm 1978 tại tỉnh Tây Ninh; nơi cư trú: Tổ 0, ấp H, xã K, huyện B, tỉnh Tây Ninh; số CMND 290626998; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 9/12; con ông Nguyễn Văn P và bà Nguyễn Thị C; có vợ Nguyễn Thị Ánh N và 01 con sinh năm 2009; tiền sự; tiền án: Không; bị bắt tạm giam từ ngày 18/4/2017 cho đến nay.

3. Nguyễn Văn D (tự L), sinh năm 1982 tại tỉnh Tây Ninh; nơi cư trú: Ấp B, xã M, Huyện N, tỉnh Tây Ninh; số CMND 290845388; nghề nghiệp: Cho thuê nhạc sống; trình độ văn hóa: 8/12; con ông Nguyễn Văn A và bà Nguyễn Thị B; có vợ Nguyễn Thị Hồng O và 01 con sinh năm 2013; tiền sự; tiền án: Không; bị bắt tạm giam từ ngày 18/4/2017 cho đến nay.

Ba bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Văn H: Ông Nguyễn Thanh G, Luật sư, Văn phòng luật sư R thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Q, có mặt.

- Bị hại: Anh Phạm Tấn Đ, sinh năm 1983; nơi cư trú: ấp P, xã V, huyện C, tỉnh Tây Ninh, hiện đang công tác tại đội tuần tra kiểm soát giao thông phòng PCA2 – Công an tỉnh Tây Ninh, có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Phạm Tấn Đ, sinh năm 1983; nơi cư trú: ấp P, xã V, huyện C, tỉnh Tây Ninh, hiện đang công tác tại đội tuần tra kiểm soát giao thông phòng PCA2 – Công an tỉnh Tây Ninh, có đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ  án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ ngày 19/12/2016, Lê Chí T, Nguyễn Văn H, Nguyễn Văn D, Huỳnh Thanh X và Nguyễn Văn E cùng uống rượu với nhau. Đến khoảng 18 giờ cùng ngày thì D điều khiển xe mô tô biển số 70E1-151.50 của D chở X chạy trước. T chở E, H điều khiển xe một mình chạy theo sau. Cả nhóm đi trên Quốc lộ 22B, theo hướng từ thành phố Tây Ninh đến thị trấn T. Lúc này, anh Phạm Tấn Đ là Cảnh sát giao thông - Công an tỉnh Tây Ninh cũng đang điều khiển xe đặc chủng chở anh Huỳnh Hùng Q là Cảnh sát cơ động - Công an tỉnh Tây Ninh đi thực hiện nhiệm vụ tuần tra kiểm soát giao thông trên Quốc lộ 22B. Khi đến đoạn đường thuộc ấp M, xã T, huyện B, tỉnh Tây Ninh, thấy nhóm của D có biểu hiện điều khiển xe trong tình trạng đã sử dụng rượu, bia nên anh Đ ra hiệu dừng xe của D để kiểm tra. Kết quả kiểm tra nồng độ cồn bằng máy đo chuyên dụng của Cảnh sát giao thông cho thấy: Trong hơi thở của D đo được nồng độ cồn là 0,321mg/1 Lít khí thở. Trong lúc D ký tên vào phiếu đo nồng độ cồn thì X đến năn nỉ anh Đ bỏ qua lỗi vi phạm của D. Anh Đ không đồng ý và tiến hành lập biên bản vi phạm hành chính đối với D. T, H và E chạy đến chứng kiến sự việc nên cũng năn nỉ anh Đ bỏ qua. Sau khi lập xong biên bản vi phạm hành chính, anh Đ tiến hành lập biên bản tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm là chiếc xe mô tô biển số 70E1-151.50 do D điều khiển. Lúc này, H, T bắt đầu lớn tiếng chửi anh Đ, không chấp nhận việc giải thích của anh Đ, không đồng ý cho anh Đ giữ xe. Thấy các đối tượng không chấp hành, anh Đ điện thoại cho anh Mai Lương B là Cảnh sát giao thông cũng đang thực hiện nhiệm vụ cùng anh Lê Minh Y gần đó đến hỗ trợ. Anh Q lấy máy điện thoại để quay lại sự việc. T tiếp tục lớn tiếng chửi anh Đ và giật điện thoại của anh Q nhưng không được. D lợi dụng lúc anh Đ mất tập trung, đi lại gần giật giấy chứng nhận đăng ký xe, giấy phép lái xe, giấy chứng minh nhân dân từ tay anh Đ, leo lên xe nổ máy để chạy thoát. Anh Q ngưng quay phim, chạy đến nắm yên xe giữ lại. Anh Đ đứng trước đầu xe, đồng thời dùng tay lấy chìa khóa xe của D. H dùng tay gạt tay anh Đ ra để ngăn cản không cho anh Đ lấy chìa khóa xe. T dùng hai tay ôm ngang hông anh Đ kéo ngược về phía sau, vật mạnh làm cả hai ngã ra đường, anh Đ bị gãy xương bàn 4 tay trái, trục thẳng, trầy xước cẳng chân trái. Lúc đó, anh B, anh Y và Công an xã T đến hỗ trợ, các đối tượng mới dừng lại. Trong khi các bên giằng co, lôi kéo qua lại, anh Đ bị văng 01 bộ đàm, 01 khẩu súng ngắn phục vụ công tác, 01 nón bảo hiểm của Cảnh sát giao thông đang đội và 01 bảng tên Phạm Tấn Đ. Biên bản tạm giữ tang vật, phương tiện chưa được lập xong. Ngày 25/12/2016, anh Phạm Tấn Đ làm đơn yêu cầu khởi tố vụ án hình sự.

Tại Cơ quan điều tra, các bị cáo đã khai nhận rõ hành vi phạm tội của mình.

* Kết quả giám định thương tích:

- Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 23/2017/TgT ngày 06/02/2017 của Trung tâm pháp y thuộc Sở y tế tỉnh Tây Ninh, kết luận: tỷ lệ tổn thương cơ thể của Phạm Tấn Đ do thương tích gây nên hiện tại là 09%.

* Kết quả thu giữ và xử lý vật chứng:

- 01 xe mô tô biển số 70E1 – 151.50, nhãn hiệu Yamaha, số máy 5P11 – 182677, số khung CN5P110AY182676;

- 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Văn D;

- 01 giấy phép lái xe số AM476077 mang tên Nguyễn Văn D;

- 01 giấy chứng nhận đăng ký xe biển số 70E1 – 151.50.

* Về bồi thường thiệt hại: Bị hại Phạm Tấn Đ không yêu cầu các bị cáo bồi thường.

* Đối với Huỳnh Thanh X và Nguyễn Văn E có đi chung nhóm với  Nguyễn Văn D, Nguyễn Văn H và Lê Chí T nhưng không tham gia cản trở anh Phạm Tấn Đ thực thi nhiệm vụ được giao nên Cơ quan điều tra không xử lý là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

Bản cáo trạng số 42/QĐ/KSĐT ngày 26 tháng 5 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh truy tố bị cáo Lê Chí T về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm k khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự năm 1999 (được sửa đổi bổ sung năm 2009); các bị cáo Nguyễn Văn H, Nguyễn Văn D về tội “Chống người thi hành công vụ” theo khoản 1 Điều 257 Bộ luật hình sự năm 1999 (được sửa đổi bổ sung năm 2009).

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát huyện Tân Biên vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lê Chí T phạm tội Cố ý gây thương tích”, các bị cáo Nguyễn Văn H, Nguyễn Văn D về tội Chống người thi hành công vụ” và đề nghị:

1/ Áp dụng điểm k khoản 1 Điều 104, điểm h, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 (được sửa đổi bổ sung năm 2009) xử phạt bị cáo Lê Chí T từ 06 đến 09 tháng tù.

2/ Áp dụng khoản 1 Điều 257, điểm h, p khoản 1, 2 Điều 46, Điều 53 Bộ luật hình sự năm 1999 (được sửa đổi bổ sung năm 2009) xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H từ 06 đến 09 tháng tù.

3/ Áp dụng khoản 1 Điều 257, điểm h, p khoản 1 Điều 46, Điều 53 Bộ luật hình sự năm 1999 (được sửa đổi bổ sung năm 2009) xử phạt bị cáo Nguyễn Văn D từ 06 đến 09 tháng tù.

Đề nghị áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự, Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự để xử lý vật chứng vụ án theo quy định của pháp luật.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Nguyễn Văn H trình bày tranh luận việc Hội đồng xét xử không triệu tập đại diện của cơ quan công quyền mà cụ thể là đại diện của Phòng cảnh sát giao thông Công an tỉnh Tây Ninh tham gia phiên tòa là một thiếu sót, về tội danh và điều luật vị Luật sư đồng ý với đề nghị của Viện kiểm sát, đối với xác định thiệt hại của người bị hại không yêu cầu bồi thường thiệt hại đã làm cho các bị cáo mất đi một tình tiết giảm nhẹ. Bị cáo H có hai tình tiết giảm nhẹ được quy định tại h, p khoản 1 và một tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sư để xử bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt đồng thời áp dụng Điều 60 Bộ luật hình sự để cho bị cáo được hưởng án treo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh tranh luận cho rằng vẫn đề triệu tập đại diện của cơ quan công quyền mà cụ thể là đại diện của Phòng cảnh sát giao thông Công an tỉnh Tây Ninh, tham gia phiên tòa là không cần thiết, vì việc các bị cáo chống cá nhân anh Đ được phân công thi hành công vụ chứ không phải chống lại Phòng cảnh sát giao thông Công an tỉnh Tây Ninh và vấn đề này đã được Hội đồng xét xử giải quyết tại phần thủ tục bắt đầu phiên tòa, đối với việc vị Luật sư bào chữa cho bị cáo Nguyễn Văn H đề nghị áp dụng Điều 47, Điều 60 để xử phạt bị cáo H dưới mức thấp nhất của khung hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo, là trái với khoản 3 Điều 2 Nghị quyết số 01 ngày 06 tháng 11 năm 2013 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, còn việc xác định thiệt hại của người bị hại quá trình điều tra đã thu thập đầy đủ chứng cứ như hồ sơ bệnh án, kết quả giám định hơn nữa thiệt hại của anh Đ là do hành vi cố ý gây thương tích của bị cáo T gây ra vị luật sư bào chữa cho bị cáo H về hành vi chống người thi hành công vụ không có người bị hại nên ý kiến của vị luật sư hoàn toàn không có cơ sở.

Các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như bản cáo trạng mà Viện kiểm sát huyện Tân Biên truy tố và không có ý kiến tranh luận.

Lời nói sau cùng: Bị cáo T gửi lời xin lỗi đến người bị hại, cả ba bị cáo đều xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo để các bị cáo sớm trở về hòa nhập với cộng đồng và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

 [1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo, người bào chữa không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

 [2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Vào khoảng 18 giờ ngày 19/12/2016 trên Quốc lộ 22B thuộc khu vực M, xã T, huyện B, tỉnh Tây Ninh các bị cáo Lê Chí T, Nguyễn Văn D và Nguyễn Văn H có hành vi dùng những lời lẽ thô tục chửi bới, lôi kéo, giằng co, cản trở anh Phạm Tấn Đ là Cảnh sát giao thông Công an tỉnh Tây Ninh đang thực thi nhiệm vụ được giao trong khi tuần tra kiểm soát giao thông trên Quốc lộ 22B nhằm mục đích không cho anh Phạm Tấn Đ thực thi nhiệm vụ của mình là lập biên bản tạm giữ phương tiện, Lê Chí T là người trực tiếp ôm vật, kéo ngã làm anh Đ bị gãy xương bàn 4 tay trái, trục thẳng với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 09%. Hành vi của bị cáo Nguyễn Văn D, Nguyễn Văn H đã có đủ yếu tố cấu thành tội “Chống Người thi hành công vụ” tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 257 Bộ luật hình sự.

Đối với hành vi chống người thi hành công vụ của bị cáo Lê Chí T nhưng hậu quả lại làm cho anh Phạm Tấn Đ bị thương tật 09% nên hành vi của bị cáo đã cấu thành tội “Cố ý gây thương tích” với tình tiết định tội là “Để cản trở người thi hành công vụ” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm k khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự.

 [3] Tính chất của vụ án ít nghiêm trọng, hành vi của các bị cáo Nguyễn Văn H và Nguyễn Văn D đã trực tiếp xâm phạm hoạt động bình thường, đúng đắn của cơ quan Nhà nước, tổ chức, làm giảm hiệu lực quản lý của cơ quan, tổ chức mà cụ thể là lực lượng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh Tây Ninh đang thi hành công vụ. Hành vi của Lê Chí T đã xâm phạm nghiêm trọng đến khách thể quan trọng là quyền được bảo vệ sức khỏe, tính mạng của con người đồng thời gây mất trật tự tại địa phương.

Việc vị Luật sư bào chữa cho bị cáo Nguyễn Văn H cho rằng việc Hội đồng xét xử không triệu tập đại diện của cơ quan công quyền mà cụ thể là đại diện của Phòng cảnh sát giao thông Công an tỉnh Tây Ninh tham gia phiên tòa là một thiếu sót hay việc xác định thiệt hại của người bị hại không yêu cầu bồi thường thiệt hại đã làm cho các bị cáo mất đi một tình tiết giảm nhẹ là không có cơ sở như ý kiến tranh luận của đại diện Viện kiểm sát, vị Luật sư đề nghị áp dụng Điều 47, Điều 60 để xử phạt bị cáo H dưới mức thấp nhất của khung hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo là trái với khoản 3 Điều 2 Nghị quyết số 01 ngày 06 tháng 11 năm 2013 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao quy định về áp dụng Điều 60 của Bộ luật hình sự về án treo nên Hội đồng xét xử không chấp nhận theo đề nghị của vị luật sư.

Nên cần có mức án tương xứng đối với hành vi phạm tội của các bị cáo đồng thời cần cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để có điều kiện cải tạo, giáo dục các bị cáo trở thành công dân tốt sống có ích cho gia đình và xã hội, đồng thời nhằm mục đích đấu tranh phòng và chống các hành vi chống người thi hành công vụ, giữ gìn trật tự công cộng, tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước bảo vệ tính mạng, sức khỏe của người thi hành công vụ, phục vụ cho công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm.

 [4] Xét mức độ phạm tội của các bị cáo:

Vụ án tuy có nhiều người tham gia nhưng khi thực hiện hành vi phạm tội không có sự bàn bạc, phân công công việc cụ thể nên thuộc trường hợp đồng phạm giản đơn.

Bị cáo Lê Chí T cùng với các bị cáo Nguyễn Văn H, Nguyễn Văn D có hành vi ngang nhau, không có người khởi xướng, cầm đầu mà các bị cáo cùng tham gia chống đối anh Đ. Tuy nhiên bị cáo T gây ra hậu quả là làm anh Đ bị thương tật 9% nên bị cáo T phải chịu trách nhiệm về hành vi cố ý gây thương tích do đó cần xử các bị cáo mức án tương xứng với nhau.

 [5] Tình tiết tăng nặng: Không có.

 [6] Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, các bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng đây là các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm h, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự ngoài ra bị cáo Nguyễn Văn H trong quá trình làm Công an viên xã K đã được Ủy ban nhân dân xã K tặng Giấy khen vì đã có thành tích trong phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc và đạt danh hiệu Chiến sỹ tiên tiến năm 2008, năm 2010 được Trung đoàn 174 tặng giấy khen vì đã hoàn thành tốt nhiệm vụ trong huấn luyện lực lượng dự bị động viên đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự nên Hội đồng xét xử có xem xét giảm nhẹ cho các bị cáo một phần mức án khi quyết định hình phạt thể hiện được chính sách khoan hồng, nhân đạo của pháp luật xã hội chủ nghĩa.

 [7] Bồi thường thiệt hại: Người bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường nên không xem xét.

[8] Xử lý vật chứng: 01 Xe mô tô biển số 70E1 – 151.50, nhãn hiệu Yamaha, số máy 5P11 – 182677, số khung CN5P110AY182676; 01 Giấy chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Văn D; 01 Giấy phép lái xe số AM476077 mang tên Nguyễn Văn D; 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe biển số 70E1 – 151.50 là tài sản hợp pháp của bị cáo Nguyễn Văn D không liên quan đến việc thực hiện tội phạm nên hoàn trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn D. Nhưng giao tất cả các tài sản trên cho Chi cục thi hành án dân sự huyện Tân Biên tiếp tục quản lý để đảm bảo việc thi hành án.

 [9] Các bị cáo Lê Chí T, Nguyễn Văn H, Nguyễn Văn D mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm theo Điều 98, 99 Bộ luật tố tụng hình sự, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Lê Chí T phạm tội Cố ý gây thương tích”, các bị cáo Nguyễn Văn H (tự U), Nguyễn Văn D (tự L) phạm tội Chống người thi hành công vụ”.

1.1 Áp dụng điểm k khoản 1 Điều 104, điểm h, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Lê Chí T 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành án phạt tù tính từ ngày 24/3/2017.

1.2 Áp dụng khoản 1 Điều 257, điểm h, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn D (tự L) 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành án phạt tù tính từ ngày 18/4/2017.

1.3 Áp dụng khoản 1 Điều 257, điểm h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành án phạt tù tính từ ngày 18/4/2017.

2. Bồi thường thiệt hại: Ghi nhận người bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường.

3. Xử lý vật chứng:

Áp dụng khoản 1 Điều 41 Bộ luật hình sư.

Hoàn trả cho bị cáo Nguyễn Văn D 01 Xe mô tô biển số 70E1 – 151.50, nhãn hiệu Yamaha, số máy 5P11 – 182677, số khung CN5P110AY182676; 01 Giấy chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Văn D; 01 Giấy phép lái xe số AM476077 mang tên Nguyễn Văn D; 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe biển số 70E1 – 151.50.

Nhưng giao tất cả các tài sản trên cho Chi cục thi hành án dân sự huyện Tân Biên tiếp tục quản lý để đảm bảo việc thi hành án.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 98, 99 Bộ luật tố tụng hình sự, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Buộc các bị cáo Lê Chí T, Nguyễn Văn H (tự U), Nguyễn Văn D (tự L) mỗi bị cáo chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh để xét xử phúc thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với anh Phạm Tấn Đ vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ tại địa phương.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

271
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 48/2017/HSST ngày 14/07/2017 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:48/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Biên - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/07/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về