Bản án 477/2018/HS-PT ngày 15/08/2018 về tội môi giới mại dâm

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 477/2018/HS-PT NGÀY 15/08/2018 VỀ TỘI MÔI GIỚI MẠI DÂM

Ngày 15 tháng 8 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 441/2018/TLPT-HS ngày 11 tháng 7 năm 2018 đối với bị cáo Bùi Thị Th do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 77/2018/HS-ST ngày 29 tháng 5 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện Thanh Trì, Hà Nội.

* Bị cáo có kháng cáo: BÙI THỊ TH, sinh ngày 03/01/1986 tại H B; ĐKNKTT và nơi cư trú: Số X, khu tập thể cơ khí điện B, phường L K, quận Hà Đông, TP Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: lớp 12/12; dân tộc: Mường; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Văn B và bà Đinh Thị V; có chồng Đỗ Viết S và 02 con, con lớn sinh năm 2013, con nhỏ sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: không. Bị cáo tại ngoại, có mặt.

* Người bào chữa cho bị cáo: Ông Nguyễn Đức Kiên - Luật sư Công ty luật TNHH MTV Hà Nội - AVINA thuộc Đoàn luật sư thành phố Hà Nội, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ ngày 11/01/2018, Trần Ngọc T (sinh năm: 1987, HKTT: V N, Tân Yên, Bắc Giang), Trương Ngọc H (sinh năm: 1972, HKTT: T Đ, Thanh Xuân, Hà Nội), Trần Văn T (sinh năm: 1971, HKTT: G X, Giao Thuỷ, Nam Định) cùng rủ nhau đi mua dâm. Sau khi đã thống nhất, T sử dụng điện thoại của T số thuê bao 0163731XXXX gọi đến số thuê bao 091188YYYY của Bùi Thị Th để hỏi về việc mua bán dâm. Th đồng ý và thoả thuận giá là 500.000 đồng/01 người/01 lượt. Sau khi thỏa thuận xong, Th gọi chị Bùi Thị Ph (sinh năm: 1986, HKTT: X H, Lạc Sơn, Hoà Bình) và Hoàng Thị Thanh Q (sinh năm: 1981, HKTT: H Q, Ứng Hoà, Hà Nội) đi bán dâm cùng Th.

Sau đó, Th đến Khách sạn Xanh ở khu đấu giá Yên Xá, Tân Triều, Thanh Trì, Hà Nội thuê phòng trước rồi hẹn Ph, Q, T đến phòng 402 Khách sạn Xanh gặp Th.

Đến khoảng 12 giờ cùng ngày, tại khách sạn Xanh, T đưa cho Th số tiền 1.700.000 đồng gồm tiền mua dâm 1.500.000 đồng và 200.000 đồng tiền T đưa cho Th. Th cầm tiền và đưa cho Q 500.000 đồng. Sau đó Q và T đi vào phòng 303; H và Ph; Th và T đang thực hiện hành vi mua bán dâm với nhau thì bị Tổ công tác của Đội Điều tra hình sự - Công an huyện Thanh Trì kiểm tra hành chính phát hiện, thu giữ tại phòng 303: 01 bao cao su đã qua sử dụng, 01 điện thoại đi động của T, 01 điện thoại di động của Ph; tại phòng 402 thu giữ: 01 bao cao su đã qua sử dụng, 02 điện thoại di động và số tiền 1.200.000đồng.

Tại cơ quan điều tra, Bùi Thị Th, Hoàng Thị Thanh Q, Bùi Thị Ph, Trần Ngọc T, Trương Ngọc H và Trần Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi như đã nêu trên. Đây là lần đầu tiên Th môi giới cho Q, Ph bán dâm cho T và H.

Đối với hành vi mua bán dâm của Trần Ngọc T, Trương Ngọc H và Trần Văn T và hành vi bán dâm của Bùi Thị Th, Hoàng Thị Thanh Q, Bùi Thị Ph, Công an huyện Thanh Trì đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính.

Đối với chủ khách sạn Xanh thuộc Công ty TNHH phát triển thương mại và dịch vụ Th H là Tạ Thị L - giám đốc công ty, do thiếu tinh thần trách nhiệm để xẩy ra hoạt động mua bán dâm tại khách sạn do mình quản lý nên Uỷ ban nhân dân huyện Thanh Trì ra quyết định xử phạt hành chính. Bà Tạ Thị L không có yêu cần đề nghị gì. 

Đối với 02 chiếc điện thoại di động cùng số sim 0911887192, 01652929486 thu giữ của chị Bùi Thị Th: 01 chiếc điện thoại di động cùng số sim 01682143827 thu giữ của Bùi Thị Ph: 01 điện thoại di động cùng số sim 0911744862 thu giữ của Hoàng Thị Thanh Q và 01 điện thoại cùng số sim 01637313341 thu giữ của Trần Ngọc T: đây là những chiếc điện thoại được sử dụng vào việc phạm tội nên cần tiếp tục giữ để xử lý theo quy định của pháp luật.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 77/2018/HSST ngày 29 tháng 5 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện Thanh Trì đã quyết định: Tuyên bố bị cáo Bùi Thị Th phạm tội “Môi giới mại dâm”.

- Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 328, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt Bùi Thị Th 36 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

- Ngoài ra bản án còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo của bị cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 10/6/2018 bị cáo Bùi Thị Th có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, được hưởng án treo.

Tại phiên tòa bị cáo Bùi Thị Th đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng với nội dung bản cáo trạng và bản án sơ thẩm đã quy kết. Bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, được hưởng án treo với lý do hoàn cảnh gia đình khó khăn, con còn nhỏ, hiện đang mang thai tuần thứ 24 và gia đình có các bác được tặng thưởng huân, huy chương.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội tại phiên tòa sau khi tóm tắt nội dung vụ án, đánh giá, phân tích tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, tình tiết giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, xem xét kháng cáo của bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 328; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54 Bộ luật Hình sự; điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng Hình sự, chấp nhận kháng cáo của bị cáo Bùi Thị Th, giảm cho bị cáo từ 03 đến 06 tháng tù, xử phạt bị cáo Bùi Thị Th từ 30 đến 33 tháng tù.

Luật sư bào chữa cho bị cáo trình bày bản bào chữa cho rằng bị cáo không có việc tư lợi; số tiền 200.000đồng Trần Ngọc T đưa bị cáo không biết; tiền là vật chứng không được niêm phong, mở niêm phong; bị cáo là thành phần gia đình có công với cách mạng; bị cáo hiện đang mang thai 24 tuần. Luật sư đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai nhận tội của bị cáo Bùi Thị Th tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với lời khai của người liên quan, những người làm chứng, tang vật chứng đã thu giữ cùng các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Do vậy có đủ cơ sở kết luận: Hồi 12 giờ ngày 11/01/2018 tại Khách sạn Xanh ở Yên Xá, xã Tân Triều, huyện Thanh Trì, TP Hà Nội, Bùi Thị Th đã thực hiện hành vi môi giới để Hoàng Thị Thanh Q bán dâm cho Trần Ngọc T và Bùi Thị Ph bán dâm cho Trương Ngọc H thì bị Tổ công tác của Đội điều tra hình sự - Công an huyện Thanh trì kiểm tra hành chính phát hiện và thu giữ: 03 bao cao su, 05 điện thoại di động và số tiền 1.700.000đồng. Hành vi nêu trên của bị cáo Bùi Thị Th đã bị Toà án cấp sơ thẩm đã xét xử về tội “Môi giới mại dâm” theo điểm đ khoản 2 Điều 328 của Bộ luật Hình sự năm 2015 là hoàn toàn có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

[2] Đối với việc Luật sư cho rằng bị cáo không biết số tiền 200.000đồng Trần Ngọc T đưa và không có tư lợi là không có cơ sở bởi lẽ tại cơ quan điều tra bị cáo đều khảng định T đưa 1.700.000đồng trong đó 1.500.000đồng là tiền mua dâm còn 200.000đồng là tiền Th gọi thêm người bán dâm phù hợp với lời khai của Trần Ngọc T tại cơ quan điều tra và tang vật thu giữ số tiền 1.700.000đồng. Đối với việc Cơ quan điều tra không niêm phong tiền là tang vật là thiếu sót song không ảnh hưởng đến bản chất của vụ án do quá trình bắt quả tang đã lập biên bản về việc thu giữ số tiền 1.700.000đồng là tiền tang vật của vụ án.

[3] Xét kháng cáo của bị cáo Bùi Thị Th xin giảm nhẹ hình phạt, được hưởng án treo thì Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo trong vụ án; thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải của bị cáo; xem xét nhân thân của bị cáo chưa có tiền án, tiền sự đã xử phạt tù giam đối với bị cáo Bùi Thị Th theo điểm đ khoản 2 Điều 328 Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ pháp luật. Do vậy kháng cáo của bị cáo xin được hưởng án treo là không có cơ sở chấp nhận. Tuy nhiên cấp sơ thẩm đã quyết định mức hình phạt 36 tháng tù đối với bị cáo Bùi Thị Th về tội “Môi giới mại dâm” là còn quá nghiêm khắc, bởi lẽ nhân thân bị cáo chưa có tiền án, tiền sự; bản thân bị cáo cũng là đối tượng bán dâm, có hoàn cảnh gia đình khó khăn, con còn nhỏ, hiện đang mang thai; bị cáo là người dân tộc thiểu số. Do vậy có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt, nên xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, tạo điều kiện cho bị cáo yên tâm cải tạo sớm trở về hòa nhập xã hội.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị tiếp tục có hiệu lực pháp luật.

[5] Bị cáo kháng cáo được cấp phúc thẩm chấp nhận nên không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015,

1. Sửa một phần bản án sơ thẩm: Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 328; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Bùi Thị Th 27 (Hai mươi bẩy) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án về tội “Môi giới mại dâm”.

2. Về án phí: bị cáo Bùi Thị Th không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của án sơ thẩm về xử lý vật chứng, án phí không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

767
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 477/2018/HS-PT ngày 15/08/2018 về tội môi giới mại dâm

Số hiệu:477/2018/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về