Bản án 475/2020/DS-PT ngày 31/12/2020 về tranh chấp bồi thường thiệt hại sức khỏe

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 475/2020/DS-PT NGÀY 31/12/2020 VỀ TRANH CHẤP BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI SỨC KHỎE

Trong các ngày 28 và 31 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Long An xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 477/2020/TLPT-DS ngày 27 tháng 10 năm 2020 về tranh chấp bồi thường thiệt hại về sức khỏe.

Do bản án dân sự sơ thẩm số 37/2020/DS-ST ngày 11/09/2020 của Tòa án nhân dân huyện Cần Đước bị kháng cáo và kháng nghị.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 521/2020/QĐ-PT ngày 24 tháng 11 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1968;

Địa chỉ: Ấp Tây, xã Long Hựu Tây, huyện Cần Đước, tỉnh Long An.

- Bị đơn:

1. Ông Huỳnh Hùng T, sinh năm 1977;

2. Ông Huỳnh Văn G, sinh năm 1988;

Cùng địa chỉ: Ấp Tây, xã Long Hựu Tây, huyện Cần Đước, tỉnh Long An.

- Người kháng cáo: Ông Huỳnh Hùng T và ông Huỳnh Văn G – Bị đơn.

- Viện kiểm sát kháng nghị: Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An.

(Ông H và ông T có mặt; ông G vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 01-4-2020 và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn ông Nguyễn Văn H trình bày:

Khoảng 07 giờ 00 phút ngày 23-12-2019, ông và ông T ngồi uống nước tại quán của chị Đặng Thị G, trong lúc nói chuyện về việc mua bán gà đá thì giữa ông và ông T xảy ra mâu thuẫn, dẫn đến xô xát, được những người ở quán can ngăn. Ông bỏ đi về quán Út N. Ông G là em ruột của ông T điều khiển xe môtô đến thấy tay phải của ông T bị trầy xước, ông T nói mới đánh nhau với ông H. Ông G đi đến quán thấy ông H đang ngồi uống nước chung với Lê Văn P, Lê Thanh H1 và Phạm Thanh S, ông G đi vào quán lấy ghế nhựa đưa lên đánh nhưng được ông H1 dùng tay đỡ, ông G đi lên nhà trên lấy 2 cục bê tông trở xuống chọi ông H nhưng không trúng. Ông H lấy trái bi da ném trúng vào tay trái của ông G. Sau đó hai bên ôm vật nhau, ông G lấy 1 con dao ở gần đó tay trái nắm tóc phía sau ông H, tay phải dùng cán dao đánh vào đầu 01 cái gây thương tích. Ông T chạy từ phía sau quán Út N đến dùng tay đánh vào mũi ông H 01 cái thấy máu chảy ra nên ông T và ông G đi về. Sau đó, ông H điều trị vết thương ở Bệnh viện Chợ Rẫy từ ngày 23-12-2019 đến ngày 25-12-2019 và ngày 03-01-2020 đến ngày 13-01-2020 điều trị tại Bệnh viện Răng Hàm Mặt (điều trị gãy xương chính mũi). Chi phí điều trị, ăn uống 20.000.000 đồng, tiền xe 10.000.000 đồng, tiền mất thu nhập 35.000.000 đồng/tháng với 6 tháng là 210.000.000 đồng (hiện ông H đang làm thợ cần) tiền tổn thất tinh thần 70.000.000 đồng. Tổng cộng 310.000.000 đồng. Tại phiên tòa ngày 27-8-2020, ông H chỉ yêu cầu ông T, ông G bồi thường số tiền 300.000.000 đồng. Tại phiên tòa ngày 11-9-2020, do thấy hoàn cảnh của ông T và ông G khó khăn nên ông H chỉ yêu cầu ông T, ông G bồi thường số tiền 205.000.000 đồng.

Bị đơn ông Huỳnh Hùng T trình bày:

Ngày 23-12-2019, ông đang ngồi uống nước tại quán chị G, H đến quán nói chuyện hai bên có xảy ra mâu thuẫn và xô xát nên anh bị trầy xước tay. Ông H đi qua quán Út N thì anh G điều khiển xe chạy tới thấy tay anh T bị trầy xước mới hỏi “Tay ông sao bị chảy máu”. Anh trả lời “Đánh nhau với ông H”. ông T điều khiển xe đi thì nghe bên quán Út N xảy ra xô xát không biết việc gì, ông chạy đến phía sau quán thấy ông G và ông H ôm vật nhau, ông có dùng tay phải đánh vào mũi của ông H 01 cái thấy máu chảy thì ông và ông G ra về. Nay trước yêu cầu của ông H, ông T đồng ý bồi thường chi phí điều trị có chứng từ hóa đơn hợp lệ với số tiền là 20.000.000 đồng. Các khoản khác ông H yêu cầu ông không đồng ý bồi thường.

Bị đơn ông Huỳnh Văn G trình bày:

Ngày 23-12-2019, ông đang ngồi đánh cờ tướng ở quán Chuông gió. Sau đó, ông điều khiển xe về nhà thì thấy tay phải ông T bị trầy xước, nên hỏi ông T tại sao tay bị chảy máu, ông T trả lời “Đánh nhau với ông H”. ông đi đến quán Út N, thấy ông H đang ngồi uống nước với ông Lê Văn P, ông Lê Thanh H1 và ông Phạm Thanh S. ông đi vào quán lấy ghế mũ đánh ông H không trúng, ông H chụp viên bi da ném trúng vào tay trái ông G, ông lấy cục đá chọi lại ông H nhưng không trúng, ông và ông H ôm vật nhau. Lúc này ông thấy con dao dưới đất nên cầm lên dùng cán dao đánh vào đầu ông H 01 cái. ông T không biết ở đâu đi tới đánh ông H 1 cái trúng lổ mũi, thấy mũi ông H máu chảy ra nên ông và ông T ra về. Nay ông H yêu cầu bồi thường 300.000.000 đồng ông không đồng ý, ông chỉ đồng ý bồi thường tiền chi phí điều trị theo chứng từ toa thuốc hợp lý, tiền xe cũng đồng ý bồi thường nhưng cũng phải hợp lệ, các khoản khác tiền mất thu nhập, tiền tổn thất tinh thần không đồng ý bồi thường.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số 37/2020/DS-ST ngày 11 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Cần Đước quyết định:

- Áp dụng Điều 584; 585 và Điều 590 Bộ luật dân sự năm 2015;

- Căn cứ Điều 26; Điều 35, Điều 39, Điều 92 và Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn H về việc “Tranh chấp bồi thường thiệt hại về sức khỏe” đối với anh Huỳnh Hùng T và anh Huỳnh Văn G.

Buộc anh Huỳnh Hùng T và anh Huỳnh Văn G phải chịu trách nhiệm liên đới bồi thường cho ông Nguyễn Văn H số tiền là 101.650.000 đồng (Một trăm lẻ một triệu, sáu trăm năm mươi ngàn đồng).

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong bên phải thi hành án còn phải chịu thêm khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành theo mức lãi suất quy định khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.

Không chấp một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn H về việc “Tranh chấp bồi thường thiệt hại về sức khỏe” đối với anh Huỳnh Hùng T và anh Huỳnh Văn G số tiền là 108.350.000 đồng (Một trăm lẻ tám triệu, ba trăm năm mươi ngàn đồng).

Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.

Ngày 21-9-2020, bị đơn ông Huỳnh Hùng T và ông Huỳnh Văn G kháng cáo không đồng ý bồi thường các khoản: Tiền mất thu nhập của ông H 70.000.000 đồng; tiền công người nuôi 4.200.000 đồng và tiền tổn thất tinh thần 7.450.000 đồng.

Ngày 07-10-2020, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An có Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 126/QĐKNPT-VKS-DS như sau:

Thu nhập thực tế của ông H 70.000.000 đồng dựa trên 02 tháng lương của ông H 35.000.000 đồng/tháng là chưa đủ cơ sở vững chắc; bản án tuyên nghĩa vụ chậm trả không đúng quy định và tuyên không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông H đối với số tiền 108.350.000 đồng là chưa chính xác, mâu thuẫn với phần nhận định.

Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và các bị đơn không rút đơn kháng cáo, Viện kiểm sát không rút kháng nghị, các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.

Nguyên đơn ông H trình bày:

Ông căn cứ vào hợp đồng lao động 35.000.000 đồng/tháng để tính số tiền mất thu nhập trong thời gian điều trị. Trước đây, ông làm nghề thợ cần ở Campuchia nhưng không nhớ thu nhập bao nhiêu và mấy năm nay ông không có làm thợ cần, hợp đồng lao động ngày 18-12-2019 chỉ mới ký kết, chưa thực hiện, trước khi ký hợp đồng ông thất nghiệp. Công lao động phổ thông nam tại địa phương từ 15.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng/tháng.

Bị đơn ông T trình bày:

Ông H thừa nhận trước khi ký hợp đồng ông thất nghiệp. Ông Nguyễn Ngọc A - Giám đốc Công ty trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Xây dựng Dịch vụ Thương mại Lộc Thiên P là em ruột của ông H. Theo ông biết, làm thợ cần sau khi trừ chi phí thì thu nhập 7.000.000 đồng/tháng. Tiền công người chăm sóc 300.000 đồng/ngày là quá cao, vì vợ con ông H thay phiên nhau nuôi bệnh, con ông H còn đi học, vợ ông H buôn bán ở chợ nên không ở bệnh viện suốt 14 ngày; ông không đồng ý bồi thường tổn thất tinh thần vì ông H vẫn giao tiếp quan hệ bạn bè, hàng xóm bình thường, không bị ai xa lánh, chê bai nên ông H không có tổn thất tinh thần. Công lao động phổ thông nam tại địa phương là 270.000 đồng/tháng.

Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án dân sự ở giai đoạn phúc thẩm:

- Thẩm phán, Hội đồng xét xử, những người tiến hành tố tụng và các đương sự tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

Đơn kháng cáo của các bị đơn và kháng nghị của Viện kiểm sát trong thời hạn luật quy định và hợp lệ, đủ điều kiện để xem xét theo trình tự phúc thẩm.

- Quan điểm về việc giải quyết vụ án: Thu nhập của ông H căn cứ vào hợp đồng lao động 35.000.000 đồng/ tháng là chưa có cơ sở vững chắc vì hợp đồng chưa được thực hiện và trước khi ký hợp đồng ông H thất nghiệp, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét; Bản án tuyên “Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong bên phải thi hành án còn phải chịu thêm khoản tiền lãi...” là không đúng quy định của pháp luật; ông H yêu cầu ông T, ông G bồi thường số tiền 205.000.000 đồng, Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận số tiền 101.650.000 đồng nhưng tuyên không chấp một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn H đối với số tiền là 108.350.000 đồng là không chính xác, không phù hợp với phần nhận định. Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông H đối với chi phí hợp lý và thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bệnh 4.200.000 đồng và tổn thất tinh thần 7.450.000 đồng là có căn cứ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Bị đơn ông Huỳnh Văn G có đơn đề nghị xét xử vắng mặt nên Tòa án tiến hành xét xử vụ án theo quy định tại khoản 2 Điều 296 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

[2] Khoảng 07 giờ 00 phút ngày 23-12-2019, ông Nguyễn Văn H và ông Huỳnh Hùng T có xảy ra mâu thuẫn. Sau đó, ông G là em ruột của ông T có dùng cán dao đánh vào đầu ông H gây thương tích và ông T dùng tay đánh vào mũi ông H.

[3] Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số: 19/TgT.20-PY ngày 03/02/2020 của Trung tâm pháp y – Sở y tế tỉnh Long An kết luận: Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định của nạn nhân Nguyễn Văn H là 10% (Mười phần trăm). Tại Công văn số: 30/TTPY- GĐTH v/v giải trình pháp y của Trung tâm pháp y – Sở y tế tỉnh Long An giải trình như sau: 01 sẹo vết thương lành, kích thước 02cm x 0,1cm tại vùng đỉnh đầu bên phải, không dấu thần kinh khu trú là 1%. Gãy xương chính mũi là 9%. Tại quyết định số 417 ngày 20-3-2020 của cơ quan Cảnh sát điều tra Công An huyện Cần Đước quyết định không khởi tố vụ án hình sự.

[4] Ông T và anh G thừa nhận có gây thương tích cho ông H. Bản án sơ thẩm buộc ông Huỳnh Hùng T và ông Huỳnh Văn G phải chịu trách nhiệm liên đới bồi thường cho ông Nguyễn Văn H chi phí hợp lý cho việc điều trị là 20.000.000 đồng, phần này không có kháng cáo và kháng nghị nên có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[5] Ông T và ông G kháng cáo không đồng ý bồi thường cho ông H các khoản sau: Tiền mất thu nhập của ông H 70.000.000 đồng; tiền công người nuôi 4.200.000 đồng và tiền tổn thất tinh thần 7.450.000 đồng. Thấy rằng:

[6] Về tiền thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại: Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ Hợp đồng lao động số: 0112.2019/LTP-CN ngày 18-12-2019 có thời gian lao động là 01 năm (12 tháng), mỗi tháng là 35.000.000 đồng, được ký kết giữa Công ty trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Xây dựng Dịch vụ Thương mại Lộc P và ông Nguyễn Văn H để chấp nhận thu nhập thực tế bị mất của ông H trong thời gian 02 tháng với số tiền 70.000.000 đồng là không có cơ sở. Bởi lẽ, hợp đồng lao động chưa được thực hiện trên thực tế nên số tiền lương 35.000.000 đồng/tháng không phải là thu nhập thực tế của ông H bị mất, theo quy định tại điểm a, điểm b tiểu mục 1.2 Mục 1 Phần II Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08-7-2006. Hơn nữa, ông Nguyễn Ngọc Ẩn - Giám đốc Công ty trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Xây dựng Dịch vụ Thương mại Lộc P và ông H là anh em ruột nên việc ký Hợp đồng lao động số:

0112.2019/LTP-CN ngày 18-12-2019 sẽ không khách quan. Ông H trình bày, trước đây ông làm thợ cần ở Campuchia, thu nhập không nhớ và mấy năm nay ông không có hành nghề thợ cần, xét thấy ông H không có thu nhập ổn định nên tính theo thu nhập bình quân của lao động nam tại địa phương là 350.000 đồng/01 ngày.

[7] Ông H điều trị tại Bệnh viện Chợ Rẫy từ ngày 23-12-2019 đến ngày 25-12-2019; Bệnh viện Răng Hàm Mặt từ ngày 03-01-2020 đến ngày 13-01- 2020. Tòa án cấp sơ thẩm xác định thời gian ông H điều trị từ ngày 23-12-2019 đến ngày 13-01-2020 là không đúng. Bởi vì, tại Giấy ra viện ngày 13-01-2020 của Bệnh viện Răng Hàm Mặt chỉ định ông Nguyễn Văn H được nghỉ từ 14-01- 2020 đến ngày 20-01-2020 để dưỡng bệnh. Do đó, có cơ sở xác định thời gian điều trị và mất thu nhập của ông H là từ ngày 23-12-2019 đến ngày 20-01-2020 là 27 ngày, thành tiền 9.450.000 đồng (27 ngày x 350.000 đồng/ngày). Kháng cáo của ông T, ông G và kháng nghị của Viện kiểm sát đối với phần này là có căn cứ chấp nhận, cần sửa một phần bản án sơ thẩm.

[8] Về chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị: Ông H yêu cầu tiền công của người chăm sóc là 5.000.000 đồng. Xét thấy tổng thời gian điều trị tại bệnh viện của của ông H ở cả 02 bệnh viện là 14 ngày nên Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận tiền công người nuôi dưỡng trong thời gian này và được tính theo thu nhập bình quân của lao động tại địa phương là 300.000 đồng/01 ngày, thành tiền 4.200.000 đồng (300.000 đồng/01 ngày x 14 ngày) là có căn cứ. Kháng cáo của ông T, ông G đối với phần này là không có cơ sở chấp nhận.

[9] Tiền tổn thất tinh thần: Xét thấy, với thương tích của ông Nguyễn Văn H chỉ là 10% nhưng ông H yêu cầu bồi thường tổng số tiền là 80.000.000 đồng là vượt quá 50 lần mức lương cơ sở và đây là yêu cầu với mức cao nhất theo quy định của pháp luật tại khoản 2 Điều 590 Bộ luật Dân sự năm 2015 nên không được chấp nhận. Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận cho ông H được bồi thường số tiền tổn thất tinh thần bằng với 05 lần mức lương cơ sở. Thành tiền là 7.450.000 đồng (1.490.000 đồng x 5) là có căn cứ. Kháng cáo của ông T, ông G đối với phần này là không có cơ sở chấp nhận.

[10] Như vậy, tổng số tiền mà ông Nguyễn Văn H yêu cầu ông Huỳnh Hùng T và ông Huỳnh Văn G phải bồi thường được chấp nhận là 41.100.000 đồng, trong đó chi phí hợp lý cho việc điều trị là 20.000.000 đồng, thu nhập thực tế bị mất 9.450.000 đồng, chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại 4.200.000 đồng và tổn thất tinh thần 7.450.000 đồng. Phần ông H yêu cầu không được chấp nhận là 163.900.000 đồng.

[11] Ngoài ra, bản án tuyên không chấp một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn H đối với số tiền là 108.350.000 đồng là không chính xác; tuyên nghĩa vụ chậm thi hành án “Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong bên phải thi hành án còn phải chịu thêm khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành theo mức lãi suất quy định khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự” là không đúng quy định của pháp luật. Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An là có căn cứ. Cần sửa án sơ thẩm như sau:

Phần ông H yêu cầu không được chấp nhận là 163.900.000 đồng.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành. 

[12] Phát biểu của Kiểm sát viên đề nghị chấp nhận một phần kháng cáo của ông T và ông G; chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An là có căn cứ.

[13] Về án phí dân sự sơ thẩm thẩm Ông T và ông G phải liên đới chịu 2.055.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Ông H không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

[14] Về án phí dân sự phúc thẩm Ông T và ông G không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

[15] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng Dân sự;

Chấp nhận một phần kháng cáo của ông Huỳnh Hùng T và ông Huỳnh Văn G

Chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An;

Sửa một phần bản án sơ thẩm số 37/2020/DS-ST ngày 11 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Cần Đước;

- Áp dụng các điều 288, 584, 585 và 590 Bộ luật Dân sự năm 2015;

- Căn cứ Điều 26; Điều 35, Điều 39, Điều 92 và Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn H về việc “Tranh chấp bồi thường thiệt hại về sức khỏe” đối với ông Huỳnh Hùng T và ông Huỳnh Văn G.

Buộc ông Huỳnh Hùng T và ông Huỳnh Văn G có trách nhiệm liên đới bồi thường cho ông Nguyễn Văn H số tiền là 41.100.000 đồng (gồm các khoản: Chi phí hợp lý cho việc điều trị là 20.000.000 đồng, thu nhập thực tế bị mất 9.450.000 đồng, chi phí hợp lý, phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại 4.200.000 đồng và tổn thất tinh thần 7.450.000 đồng).

2. Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi

3. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn H về việc “Tranh chấp bồi thường thiệt hại về sức khỏe” đối với ông Huỳnh Hùng T và ông Huỳnh Văn G với số tiền 163.900.000 đồng.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm:

Buộc ông Huỳnh Hùng T và ông Huỳnh Văn G phải liên đới chịu 2.055.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Ông Nguyễn Văn H không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

5. Về án phí dân sự phúc thẩm:

Ông Huỳnh Hùng T và ông Huỳnh Văn G không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. Hoàn trả số tiền 600.000 đồng theo các biên lai thu tiến số 0008771; số 0008772 cùng ngày 21-9-2020 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Cần Đước cho ông Huỳnh Hùng T và ông Huỳnh Văn G.

6. Những quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị Hội đồng xét xử không giải quyết, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

479
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 475/2020/DS-PT ngày 31/12/2020 về tranh chấp bồi thường thiệt hại sức khỏe

Số hiệu:475/2020/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Long An
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 31/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về