Bản án 473/2019/HSST ngày 10/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ T N, TỈNH T N

BẢN ÁN 473/2019/HSST NGÀY 10/09/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 10 tháng 9 năm 2019 tại Hội trường Tòa án nhân dân thành phố T N xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 475/2019/TLST-HS ngày 15 tháng 8 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 482/2019/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 8 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Ngô Văn T, sinh ngày 20/11/1989. Nơi ĐKHKTT và chỗ ở xóm C 1, xã ML, huyện Đ.H, tỉnh TN. Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn 05/12. Con ông Ngô Văn T1 ( đã chết), con bà Nguyễn Thị H1, sinh năm 1956. Gia đình có 04 anh em, bị cáo là con thứ tư, có vợ là Nguyễn Thị H2, sinh năm 1990, có 02 con, con lớn sinh năm 2009, nhỏ sinh năm 2014. Tiền án, tiền sự: Không Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/5/2019 đến nay (Có mặt) Người chứng kiến:

- Anh Triệu Văn K, sinh năm 1982. Địa chỉ xóm ML, xã N.H, huyện Đ.H, tỉnh TN; (Vắng mặt tại phiên tòa)

- Ông Ngô Bình N1, sinh năm 1961, địa chỉ xóm G.B, phường Đ.B1, thành phố TN; (Vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ 30 phút ngày 22/5/2019, tổ Công tác của Công an phường Đ.B1, thành phố TN đang làm nhiệm vụ tại khu vực xóm G.B của phường đã phát hiện 02 nam thanh niên đi xe mô tô có biểu hiện liên quan đến cất giữ ma túy. Tổ công tác đã yêu cầu 02 nam thanh niên đứng lại để kiểm tra. Kiểm tra nam thanh niên ngồi sau khai tên là Ngô Văn T, sinh năm 1989, trú tại xóm C 1, xã ML, huyện Đ.H, tỉnh TN. Thấy tổ công tác T đã vứt 01 gói nilon màu trắng ngay gần chỗ T đứng nhưng đã bị tổ công tác phát hiện. Qua kiểm tra, bên trong gói nilon có 02 gói giấy đều chứa chất bột màu trắng T khai đó là Heroine, T vừa mua được của 01 nam thanh niên không quen biết ở khu vực xóm G.B, thành phố TN với giá 200.000 đồng. Kiểm tra nam thanh niên còn lại tên là Triệu Văn K, sinh năm 1982, trú tại xóm ML, xã N.H, huyện Đ.H, tỉnh TN, không phát hiện thu giữ gì. Tổ Công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng theo quy định. Ngoài ra còn tạm giữ 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, TAURUS.

Cùng ngày Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố TN tiến hành cân xác định khối lượng chất bột màu trắng thu giữ được của T có khối lượng là 0,123 gam Tại bản kết luận giám định số 831/KL- KTHS, ngày 30/5/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh TN kết luận: Chất bột màu trắng thu giữ được của T ngày 22/5/2019 là chất ma túy loại Heroine có khối lượng là 0,123 gam Tại Cơ quan điều tra, Ngô Văn T khai nhận: Khoảng 14 giờ 00 phút ngày 22/5/2019, T thuê anh Triệu Văn K đi xe ôm đến khu vực xóm G.B, phường Đ.B1 thành phố TN với mục đích tìm mua Heroine để sử dụng T không nói mục đích đi mua Heroine cho anh K biết. Khi đến nơi T bảo anh K đi vào 01 ngõ của xóm G.B, đi vào được khoảng 100m thì gặp một nam thanh niên không quen biết, qua giao dịch T mua của nam thanh niên đó 02 gói Heroine với giá 200.000 đồng. Sau khi mua được Heroine, T cầm ở tay trái và bảo anh K điều khiển xe đi về, khi đi được khoảng 300m thì bị tổ Công tác của Công an phường Đ.B1, thành phố TN phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng theo quy định Lời khai của Ngô Văn T phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người chứng kiến, vật chứng thu giữ và kết luận giám định.

Vật chứng của vụ án: 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, TAURUS BKS18R1 - 5378 hiện đã được trả cho anh Triệu Văn K; 01 phong bì niêm phong ký hiệu T1 hiện đang được bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố TN chờ xử lý.

Tại bản Cáo trạng số 466/CT-VKSTPTN ngày 13 tháng 8 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố TN đã truy tố bị cáo Ngô Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình như như nội dung bản cáo trạng truy tố.

Trong phần luận tội, tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố TN tóm tắt nội dung vụ án, phân tích các căn cứ quy kết bị cáo Ngô Văn T về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; đánh giá nhân thân; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Từ đó đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Ngô Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự; bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Đề nghị xử phạt Ngô Văn T từ 18 đến 24 tháng tù giam.

Về vật chứng của vụ án: Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 47 Bộ luật hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong kí hiệu T1.

- Về án phí bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo không tranh luận, thừa nhận việc truy tố và xét xử bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là không oan, đúng người, đúng tội, bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Phần lời nói sau cùng bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, các quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố TN, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố TN, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo, không có ý kiến hoặc kiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó các Quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng truy tố. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan Điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định và vật chứng thu giữ. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Hồi 15 giờ 30 phút ngày 22/5/2019, tại khu vực xóm G.B, phường Đ.B1, thành phố TN, Ngô Văn T đang có hành vi tàng trữ 0,123 gam Heroine mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị tổ công tác của Công an phường Đ.B1, thành phố TN phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng.

[3] Đánh giá của Hội đồng xét xử: Bị cáo biết ma túy là vật cấm được Nhà quản lý nhưng vấn cố tình tàng trữ 0,123 gam Heroine để sử dụng cho bản thân. Do vậy hành vi của bị cáo đã đủ căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát thành phố TN truy tố bị cáo về tội danh và điều luật nêu trên là hoàn toàn có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

Nội dung điều 249 quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua hán, vận chuyn, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Heroine, ...có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.

[4] Xét tính chất mức độ của vụ án là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm các quy định của Nhà nước về quản lý, sử dụng chất gây nghiện, gây mất trật tự trị an ở địa phương.

[5] Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thấy: Ngô Văn T chưa có tiền án tiền sự. Tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Xét thấy, bị cáo là người còn trẻ, nghiện ma túy nhưng không chịu cai nghiện, tu dưỡng rèn luyện bản thân, lại đi mua ma túy để sử dụng mặc dù biết sử dụng ma túy có rất nhiều tác hại dẫn đến thiệt hại kinh tế, mầm mống của bệnh tật và gây mất trật tự trị an ở địa phương, Hội đồng xét xử xem xét cần lên một mức án phù hợp với hành vi phạm tội của bị cáo, để bị cáo có ý thức rèn luyện bản thân cải tạo trở thành người tốt.

Mức hình phạt đại diện Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo tại phiên tòa có phần nghiêm khắc. Hội đồng xét xử xem xét, cân nhắc lên một mức án phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra.

- [6] Vật chứng của vụ án:

- 01 bì niêm phong kí hiệu T1 (bên trong chứa Heroine), là vật cấm và không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy

- 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, TAURUS BKS18R1 - 5378 hiện đã được trả cho anh Triệu Văn K nên không xem xét

[7] Về hình phạt bổ sung và án phí - Hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt tù lẽ ra Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền, nhưng theo biên bản xác minh, và tại phiên tòa bị cáo khai là người nghiện ma túy, không có tài sản riêng, nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách nhà nước.

Về nguồn gốc số Heroine bị thu giữ T khai mua của một nam thanh niên không quen biết nên Cơ quan cảnh sát điều tra không đủ cơ sở để điều tra làm rõ để xử lý.

Trong vụ án này có anh Triệu Văn K là người chở T đi mua Heroine, nhưng anh K không biết mục đích T thuê anh chở đi mua Heroine nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố không xử lý.

Bởi các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

 Tuyên bố:

1. Bị cáo Ngô Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự;

2. Xử phạt: Bị cáo Ngô Văn T 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 22/5/2019. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo;

Căn cứ Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự Quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

3. Vật chứng của vụ án: Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 47 Bộ luật hình sự. Tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong kí hiệu T1 (bên trong chứa ma túy). Theo biên bản giao nhận vật chứng số 499 ngày 26/8/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố TN.

4. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Luật Phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách Nhà Nước.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

127
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 473/2019/HSST ngày 10/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:473/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về