Bản án 472/2020/HS-ST ngày 12/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 472/2020/HS-ST NGÀY 12/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 11 năm 2020 tại Hội trường A, Tòa án nhân dân thảnh phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 436/2020/TLST-HS ngày 15 tháng 10 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 469/2020/QĐXXST-HS ngày 26/10/2020 đối với bị cáo:

Trần Như O, sinh năm 1971 tại tỉnh Thừa Thiên Huế; thường trú: Ấp C, xã Q, huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; nghề nghiệp: Thợ hồ; trình độ học vấn: 01/12; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; dân tộc: Kinh; con bà Hoàng Thị S, sinh năm 1953, không rõ cha; bị cáo có vợ tên Nguyễn Thị Hồng L, sinh năm 1982; có 01 con, sinh năm 2003; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Năm 2005 bị Tòa án nhân dân Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội Cướp giật tài sản. Ngày 25/01/2006 chấp hành xong hình phạt tù và được trả tự do; Năm 2008, bị Tòa án nhân dân quận Tân Phú, thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 05 năm tù về tội Cướp giật tài sản, bị cáo kháng cáo, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phúc thẩm tuyên giảm án còn 04 năm tù. Ngày 06/02/2011, chấp hành xong hình phạt tù và được trả tự do; bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 06/7/2020, có mặt.

- Người làm chứng:

1. Anh Hồ Văn Th, sinh năm 1985, vắng mặt.

2. Anh Vũ Minh S, vắng mặt;

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 18 giờ 00 phút ngày 05/7/2020, Trần Như O sử dụng điện thoại di động Nokia màu xanh TA174, có sim số 0919.611.590 gọi cho tên p (không rõ nhân thân lai lịch) hỏi mua 1.200.000đ ma túy đá. Tên p đồng ý bán và hẹn giao ma túy tại ngã tư đường Mỹ Phước - Tân Vạn giao với Quốc lộ 1K. O đến điểm hẹn nhận 01 gói nilon ma túy đá và giao cho tên P số tiền 1.200.000đ, sau khi mua được ma túy O mang về phòng trọ lấy ra 1 ít để sử dụng, phần còn lại cất trong túi quần bên trái đang mặc trên người. Khoảng 15 giờ 00 ngày 06/7/2020, O đang đứng trước cửa phòng trọ thì Công an phường Bình An phối hợp với Đội Cảnh sát điều tra về tội phạm ma túy - kinh tế Công an thành phố Dĩ An đi tuần tra ngang qua, nhìn thấy công an O liền bỏ chạy, khi chạy được khoảng 400m, O lấy gói nilon chứa chất tinh thể màu trắng trong túi quần ra ném xuống đất thì bị lực lượng công an phát hiện bắt giữ. O khai nhận gói nilon đó chứa ma túy đá. Công an phường Bình An tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ và niêm phong tang vật để xử lý theo quy định.

Vật chứng thu giữ: 01 gói nylon miệng kéo dính chứa chất tinh thể màu trắng, khối lượng 2,2299gam; 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu xanh TA174, 02 sim số 0919611590 và 0933256132.

Tại kết luận giám định số 426/MT-PC09 ngày 14/7/2020 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận mẫu tinh thể gửi giám định là ma túy loại Methamphetamine có khối lượng 2,2299 gam.

Đối với đối tượng tên p đã bán ma túy cho O, do chưa xác định được lai lịch, địa chỉ khi nào xác minh được sẽ tiến hành xử lý sau.

Tại cáo trạng số 468/CT-VKS ngày 14 tháng 10 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Trần Như O về tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo Trần Như O mức án từ 02 (hai) năm đến 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu tiêu hủy 01 bì thư đã niêm phong bên trong chứa 2,0749 gam Methamphetamine là mẫu vật hoàn lại sau giám định; tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động Nokia màu xanh TA174 là công cụ để bị cáo sử dụng mua ma túy; tịch thu tiêu hủy đối với sim số 0919611590 do bị cáo sử dụng mua ma túy và không còn giá trị sử dụng. Đối với sim số 0933256132 bị cáo không sử dụng vào việc phạm tội nên tuyên trả lại cho bị cáo.

Tại phiên tòa, bị cáo Trần Như O không tranh luận, không đối đáp và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đứng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung: Khoảng 15 giờ 00 ngày 06/7/2020, trong khi bị cáo đang đứng trước cửa dãy phòng trọ thì thấy lực lượng công an, bị cáo bỏ chạy. Khi chạy được khoảng 400m bị cáo lấy gói nilon bên trong có chứa tinh thể màu trắng ném xuống mặt đường thì bị lực lượng công an phát hiện bắt giữ cùng tang vật. Tại đây bị cáo khai nhận gói nilon bên trong có chứa tinh thể màu trắng bị cáo ném xuống đường là ma túy bị cáo mua của 1 người tên P (không rõ nhân thân lai lịch) vào lúc 18 giờ 00 phút ngày 05/7/2020 với giá 1.200.000 đồng. Xét, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của chính bị cáo, lời khai của người làm chứng tại Cơ quan điều tra và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án như Bản kết luận giám định số 426/MT-PC09 ngày 14/7/2020 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bình Dương. Như vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng số 468/CT-VKS ngày 14 tháng 10 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương và luận tội của Kiểm sát viên đề nghị đối với bị cáo là có căn cứ đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do bị cáo thực hiện là nghiêm trọng, đã trực tiếp xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo với mức án tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Ngoài ra, bị cáo là người có trình độ học vấn thấp, hạn chế về nhận thức nên Hội đồng sẽ áp dụng thêm khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật đối với người phạm tội.

[6] Về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân xấu, đã từng bị Tòa án nhân dân quận Tân Phú và Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt về tội Cướp giật tài sản và là người nghiện ma túy.

[7] Xử lý vật chứng: Xét, 01 bì thư niêm phong số 426/PC09 chứa tinh thể Methamphetamine trọng lượng sau giám định là 2,0749 gam là chất nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành cần tịch thu tiêu hủy; 01 điện thoại di động Nokia TA 174 màu xanh là công cụ phạm tội cần tuyên tịch thu sung vào ngân sách nhà nước; đối với sim số 0919611590 do bị cáo sử dụng để liên lạc mua ma túy không còn giá trị sử dụng cần tuyên tịch thu tiêu hủy; đối với sim số 0933256132 bị cáo không sử dụng vào việc phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo.

[8] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử quyết định hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo đủ để giáo dục, cải tạo và có tác dụng đấu tranh, phòng ngừa chung.

[9] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An là phù hợp.

[10] Đối với người tên P đã bán ma túy cho Trần Như O, do chưa xác định được lai lịch, địa chỉ khi nào xác minh được sẽ tiến hành xử lý sau.

[11] Án phí sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Trần Như O phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Trần Như O 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 06/7/2020.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

- Tịch thu tiêu hủy 01 bì thư niêm phong số 426/PC09 chứa tinh thể Methamphetamine trọng lượng sau giám định là 2,0749 gam và 01 sim số 0919611590. Trả lại cho bị cáo Trần Như O sim số 0933256132;

- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động Nokia TA 174 màu xanh.

(Biên bản giao nhận vật chứng ngày 15/10/2020-BL 112).

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 135 Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Bị cáo Trần Như O phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

149
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 472/2020/HS-ST ngày 12/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:472/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về