Bản án 47/2021/HS-PT ngày 05/02/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 47/2021/HS-PT NGÀY 05/02/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 05/02/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk tiến hành xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 392/2020/TLPT-HS, ngày 30 tháng 12 năm 2020, đối với bị cáo Diệp Tư H và Lê Công N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 49/2020/HS-ST ngày 24/11/2020 của Tòa án nhân dân thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk.

- Các bị cáo có kháng cáo:

1. Họ và tên: Diệp Tư H (Tên gọi khác: C), sinh năm 1995, tại tỉnh Đắk Lắk; Nơi cư trú: Thôn B4A, xã B, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk; Quốc tịch: Việt Nam; nghề nghiệp: Lái xe; giới tính: nam; tôn giáo: Phật giáo; trình độ học vấn: 06/12; dân tộc: Hoa; con ông Diệp Thế K và bà Nguyễn Thị H1; bị cáo có vợ là Nguyễn Thị Hà T, có 01 con sinh năm 2016; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo Diệp Tư H bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/7/2020 (Có mặt tại phiên tòa).

2. Họ và tên: Lê Công N, sinh năm 1986, tại huyện Q, tỉnh Quảng Nam; Nơi ĐKHKTT: Thôn 3, xã Q, huyện Q, tỉnh Quảng Nam; Nơi ở hiện nay: Thôn S3, xã C, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk; Quốc tịch: Việt Nam; nghề nghiệp: Thợ sửa điện cơ; giới tính: nam; tôn giáo: không; trình độ học vấn: 08/12; dân tộc: Kinh; con ông Lê Công Đ và bà Trần Thị T1; bị cáo có vợ là Trần Thị T2; có 01 con sinh năm 2013; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo được tại ngoại (Có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Diệp Tư H và Lê Công N đều trú tại thị xã B, quen biết nhau tình cờ tại một cuộc nhậu vào khoảng đầu tháng 7/2020. Qua nói chuyện, cả hai cho biết đều sử dụng ma túy đá và rủ nhau khi nào có cơ hội, có ma túy đá sẽ cùng nhau sử dụng, đồng thời cho nhau tài khoản Zalo để liên lạc. Sau khi quen biết, khoảng 3 ngày sau H đến nhà N tại thôn S 3, xã C, thị xã B chơi và rủ N cùng mua ma túy đá về sử dụng thì N đồng ý. Sau đó, N đưa cho H 200.000đ (hai trăm nghìn đồng), rồi H cầm tiền đi đến khu vực ngã 3 chợ C, xã C, huyện C, tỉnh Đắk Lắk gặp một người đàn ông (không rõ nhân thân, lai lịch) mua 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) ma túy đá đưa về nhà N rồi cả hai cùng sử dụng hết.

Đến khoảng 15 giờ 30 phút ngày 26/7/2020, H gọi cho N thông qua ứng dụng Zalo rủ N mua ma túy về sử dụng thì được N đồng ý và cho H biết nơi mình đang làm việc để đến lấy tiền. Sau đó, H đón xe của người đi đường đến thôn S 2, xã C, thị xã B gặp N. Tại đây, N đưa cho H 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) để mua ma túy, nhận tiền xong H hỏi N còn tiền cho H ít để đi xe thì N lấy thêm 10.000đ (mười nghìn đồng) đưa cho H rồi quay lại làm việc, còn H bắt xe đến khu vực ngã 3 xã E, thành phố B tìm người để mua ma túy. Đến nơi, với suy nghĩ mua 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) thì được ít và mất công đi, nên H đã bỏ thêm 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền của mình để góp chung mua ma túy về cùng sử dụng. Lúc này, H gặp một người đàn ông (không rõ nhân thân lai lịch) và mua 500.000đ (năm trăm nghìn đồng) ma túy đá rồi bắt xe về. Trên đường về nhà, H đi qua quán nhà N nhưng do quán đông người nên N nói “ở đây quán xá đông người, mày mang về nhà xem có chỗ nào dùng được không, nếu không có thì chia ra mỗi người một ít để dùng, tối tao qua lấy”, thì H đi về nhà rồi chia ma túy mua được ra làm 2 gói nhỏ và cất trong túi quần.

Khong 19 giờ cùng ngày, N đón xe từ nhà đến ngã tư gần nhà H để lấy ma túy, đứng chờ được khoảng 05 phút thì thấy H đi bộ ra và dẫn N đến nhà bà Nguyễn Thị P ở thôn B 4, xã B, thị xã B, có con là Nguyễn Đức H2 (sinh năm: 1998 – là anh họ của H) đang ở. Khi đến, thấy cửa phía trước đóng nên H dẫn N vào nhà bằng lối cửa sau. Vào phòng thấy H2 đang ngủ, nên H lấy bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá có sẵn trong phòng đặt xuống nền nhà rồi đưa cho N một gói ma túy đá. Lúc này, N dùng kéo cắt túi ma túy và đổ khoảng ½ lượng ma túy có trong gói nylon vào bộ dụng cụ sử dụng ma túy, số còn lại N để trong túi cạnh chỗ ngồi. Khi H và N đang sử dụng ma túy thì gọi H2 dậy cùng sử dụng. Đến khoảng 19 giờ 55 phút cùng ngày thì bị lực lượng Công an phát hiện và bắt quả tang, thu giữ tại nền trong phòng ngủ của H2 01 gói nylon trong suốt bên trong đựng chất rắn dạng tinh thể màu trắng; thu giữ trong túi quần trên người H 01 gói nylon trong suốt bên trong đựng chất rắn dạng tinh thể màu trắng các đối tượng khai nhận là ma túy đá mua về để sử dụng và 01 bộ dụng cụ để sử dụng ma túy.

- Vật chứng vụ án thu giữ gồm: 01 (một) gói nylon trong suốt bên trong đựng 0,0651gam ma túy loại Methamphetamine (M1); 01 (một) gói nylon trong suốt bên trong đựng 0,2095 gam ma túy loại Methamphetamine.(M2) và 01(một) bộ dụng cụ sử dụng trái phép chất ma túy.

Tại bản kết luận giám định số 687/GĐMT –PC 09 ngày 30/7/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk kết luận:

+ Phong bì ký hiệu M1: Chất rắn dạng tinh thể màu trắng đựng trong 01 gói nylon trong suốt được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,0651gam, loại Methamphetamine.

+ Phong bì ký hiệu M2: Chất rắn dạng tinh thể màu trắng đựng trong 01 gói nylon trong suốt được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,2095 gam, loại Methamphetamine.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 49/2020/HS-ST ngày 24/11/2020 của Tòa án nhân dân thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:

Tuyên bố: Các bị cáo Diệp Tư H (C) và Lê Công N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Diệp Tư H 02 (Hai) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 26/7/2020.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Lê Công N 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử, vào các ngày 01, 08 tháng 12 năm 2020 các bị cáo Diệp Tư H và Lê Công N kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và khai nhận toàn bộ hành vi mà bị cáo thực hiện đúng như nội dung vụ án đã được tóm tắt nêu trên.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk cho rằng: Bản án sơ thẩm tuyên xử Diệp Tư H và Lê Công N phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”, theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật. Xét mức hình phạt mà cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Diệp Tư H 02 năm tù, bị cáo Lê Công N 01 năm 06 tháng tù là thoả đáng, tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội và đã xem xét đầy đủ đến các tình tiết giảm nhẹ. Quá trình xét xử phúc thẩm các bị cáo không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ nào mới. Vì vậy, không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của các bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm, không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên hình phạt của bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp với lời khai của các bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm, tại Cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án, như vậy đã có đủ căn cứ pháp lý kết luận: Vào ngày 26/7/2020 các bị cáo Diệp Tư H và Lê Công N có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy với khối lượng 0,2746 gam loại Methamphetamine mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị lực lượng Công an phát hiện và bắt quả tang. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm tuyên xử các bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đảm bảo đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy: Khi xem xét, quyết định hình phạt đối với các bị cáo, cấp sơ thẩm đã áp dụng đúng tình tiết giảm nhẹ cho các bị cáo là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình quy định tại các điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Ngoài ra, gia đình bị cáo Lê Công N có ông nội, ông ngoại là người có công với cách mạng (ông ngoại là liệt sĩ) nên bị cáo N được áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, hành vi của các bị cáo tàng trữ 0,2746 gam Methamphetamine nhưng Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt đối với bị cáo Diệp Tư H 02 năm tù, bị cáo Lê Công N 01 năm 06 tháng tù là có phần nghiêm khắc. Do đó, cần chấp nhận đơn kháng cáo của các bị cáo để sửa Bản án sơ thẩm, giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo là phù hợp.

[3] Về án phí: Do kháng cáo được chấp nhận nên các bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[4] Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

[1] Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Diệp Tư H và Lê Công N. Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 49/2020/HS-ST ngày 24/11/2020 của Tòa án nhân dân thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk.

[2] Điều luật áp dụng và hình phạt:

[2.1] Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự:

Xử phạt: Bị cáo Diệp Tư H 01 (Một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt, tạm giữ, tạm giam ngày 26/7/2020.

Xử phạt: Bị cáo Lê Công N 01 (Một) năm 02 (hai) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

[3] Về án phí hình sự phúc thẩm: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án.

Các bị cáo Diệp Tư H, Lê Công N không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

224
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 47/2021/HS-PT ngày 05/02/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:47/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về