Bản án 47/2020/HS-ST ngày 31/08/2020 về tội cố ý gây thương tích

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẮK R’LẤP, TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 47/2020/HS-ST NGÀY 31/08/2020 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 31 tháng 8 năm 2020 tại phòng xét xử, Toà án nhân dân huyện Đắk R’Lấp, tỉnh Đắk Nông xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 40/2020/HSST ngày 03 tháng 7 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 45/2020/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 8 năm 2020, đối với bị cáo:

Bùi Anh T; sinh ngày 01 tháng 01 năm 1995; nơi sinh: tỉnh B; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn S, xã P, huyện B, tỉnh B; Nơi cư trú: Thôn S, xã P, huyện B, tỉnh B; Nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: Lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Xuân K, sinh năm 1970 và con bà Phan Thị T, sinh năm 1975; có vợ là Đỗ Thị T, sinh năm 2001; hiện đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt Bị hại: Anh Lê Văn M, sinh năm 1988 Địa chỉ: Thôn 2, xã Q, huyện Đ, tỉnh Đ. Có mặt.

Người làm chứng:

Anh Nguyễn Thế D, sinh năm 1995 Địa chỉ: Thôn 2, xã Q, huyện Đ, tỉnh Đ. Vắng mặt. Anh Nguyễn Công Tuấn A, sinh năm 1995 Địa chỉ: Ấp 3, xã P, huyện Đ, tỉnh Đ. Vắng mặt. Anh Nguyễn Hoàng T, sinh năm 1990 Địa chỉ: Ấp 5, xã P, huyện Đ, tỉnh Đ. Vắng mặt.

Anh Ngô Đức L, sinh năm 1993. Anh Cao Ngọc N, sinh năm 1993. Anh Võ Văn T, sinh năm 1995. Anh Ninh Văn T, sinh năm 1995. Anh Đặng Thế N, sinh năm 1995.

Anh Lại Trung H, sinh năm 1992.

Địa chỉ: Thôn S, xã P, huyện B, tỉnh B. Tất cả đều vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Bị cáo Bùi Anh T bị Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đắk R’Lấp, tỉnh Đắk Nông truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Vào khoảng 21 giờ ngày 29/8/2019 tại quán Karaoke O, thuộc thôn T, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đ có 02 nhóm thanh niên đến hát karaoke. Trong đó một nhóm trú tại xã P, huyện B, tỉnh B gồm: Bùi Anh T, Lại Trung H, Cao Ngọc N, Ngô Đức L, Võ Văn T, Đặng Thế N, Đào Thị Thanh H, Ninh Văn T hát tại phòng số 01 của quán. Nhóm còn lại trú tại xã Q, huyện Đ, tỉnh Đ gồm: Lê Văn M, Cao Thanh T, Nguyễn Hoàng T, Nguyễn Thế D, Nguyễn Công Tuấn A hát tại phòng số 03 của quán. Đến khoảng 23 giờ 30 phút cùng ngày, Lại Trung H đi ra ngoài nghe điện thoại, khi vào thì gặp Cao Thanh T đang ngồi trên xe môtô của mình, nên H nhìn T tỏ thái độ không vừa lòng, sau đó Hậu vào phòng tiếp tục hát karaoke. Khoảng 05 phút thì nhóm của H ra về, khi vừa ra đến cửa phòng hát thì nhóm của H gặp nhóm của T đứng trước cửa thì nhóm của H quay lại phòng hát, T đến trước cửa quán nhặt 02 viên gạch đi đến trước cửa phòng hát số 01. Nghi ngờ nhóm của T đánh nên H cầm 01 đĩa sứ đựng trái cây của quán đập vào cạnh bàn làm đĩa vỡ thành nhiều mảnh, rồi nhặt 02 mảnh vỡ cầm bằng hai tay đi ra ngoài, Võ Văn T cũng cầm 02 mảnh vỡ cùng Cao Ngọc N, Bùi Anh T, Ngô Đức L ra ngoài. Khi thấy Lại Trung H và Võ Văn T cầm mảnh vỡ của đĩa đi từ phòng hát ra, T liền dùng 02 viên gạch đã nhặt trước đó ném về phía H nhưng H tránh được, H ném mảnh vỡ về phía T rồi chạy vào phòng hát trốn. Lúc này Bùi Anh T giật mảnh vỡ của đĩa từ tay Võ Văn T giơ lên dọa đánh nhóm của T thì Nguyễn Thế D lấy bình cứu hỏa của quán đánh vào đầu của Bùi Anh T, còn Võ Văn T chạy vào phòng hát trốn. Lúc này Lê Văn M cũng dùng áo khoác để đánh Bùi Anh T thì bị Bùi Anh T dùng mảnh vỡ của đĩa đánh 01 cái vào vùng mặt bên trái của M gây thương tích. Sau đó Bùi Anh T bị Nguyễn Thế D, Cao Thanh T, Nguyễn Hoàng T, Nguyễn Công Tuấn A dùng gạch, tay, chân đánh vào vùng đầu, vai, lưng, tay trái gây thương tích.

Tại Bản kết luận giám định pháp y số: 292/TgT cùng ngày 22 tháng 10 năm 2019 của Trung tâm giám định pháp y – Sở y tế tỉnh Đắk Nông đối với Lê Văn M, kết luận:

Dấu hiệu chính qua giám định:

Vết thương vùng đầu, mặt bên trái, đứt dây thần kinh số VII bên trái, đứt ống tuyến nước bọt mang tai trái; Gãy cung tiếp gò má trái.

Tỷ lệ tổn thương cơ thể của Lê Văn M hiện tại là:

Tổn thương nhánh thần kinh số VII bên trái, tỷ lệ 10%; Gãy cung tiếp gò má trái can tốt, tỷ lệ 10%, cộng lùi bằng 09%; Vết thương phần mềm kích thước trung bình số lượng ít, tỷ lệ 07%, cộng lùi bằng 5,67%; Đứt ống tuyến nước bọt mang tai đã khâu nối kết quả tốt, không gây khô miệng, không gây rò nước bọt, không có tỷ lệ % thương tích.

Tổng tỷ lệ % thương tích của Lê Văn M: 10% + 09% + 5,67% = 24 % (Hai mươi bốn phần trăm).

Kết luận khác: Tổn thương do bị vật tày có cạch sắc tác động gây nên.

Tại Bản kết luận giám định pháp y số: 27/TgT cùng ngày 03 tháng 12 năm 2019 của Trung tâm giám định pháp y – Sở y tế tỉnh Đắk Nông đối với Bùi Anh T, kết luận:

Dấu hiệu chính qua giám định:

Sẹo vết thương phần mềm; Gãy xương đốt 3 ngón V bàn tay trái. Tỷ lệ tổn thương cơ thể của Bùi Anh T hiện tại là:

Sẹo vết thương phần mềm số lượng nhiều, kích thước nhỏ và trung bình, tỷ lệ 07%.

Gãy đốt xa ngón V bàn tay trái, tỷ lệ 01% bằng (100% - 07%) x 01 % = 0,93%. Tổng tỷ lệ phần trăm thương tích của Bùi Anh T là: 07% + 0,93% = 7,93% làm tròn = 08% (Tám phần trăm).

Kết luận khác: Các tổn thương do bị vật tày có cạnh tác động gây nên.

Về đồ vật, tài liệu đã thu giữ được như sau: 02 viên gạch loại đất nung 04 lỗ, cùng có kích thước (18x7,5x7,5)cm, các góc viên gạch có nhiều vết vỡ, mẻ không còn nguyên vẹn; 03 mảnh đĩa sứ vỡ không rõ hình dạng có kích thước (12,7x11,7x0,5)cm, (12,4x12x0,5)cm và (10,7x10,5x0,5)cm; 01 bình cứu hỏa màu đỏ cao 53cm, đường kính 17cm, có nhiều vết trầy xước xung quanh, bên ngoài bám dính nhiều cát.

Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra Bùi Anh T đã tự nguyện bồi thường thiệt hại về sức khỏe cho anh Lê Văn M số tiền 12.000.000 đồng (Mười hai triệu đồng). Cơ quan Cảnh sát điều tra công an huyện Đắk R’lấp đã yêu cầu Lê Văn M, Bùi Anh T nêu ý kiến về việc yêu cầu bồi thường thiệt hại làm căn cứ giải quyết phần trách nhiệm dân sự, tuy nhiên Lê Văn M, Bùi Anh T chưa có ý kiến và yêu cầu cụ thể.

Về thiệt hại tài sản của quán Karaoke O, Lại Trung H đã bồi thường cho chị Nguyễn Thị D (Là chủ quán Karaoke O) số tiền 7.000.000 đồng, chị D không có yêu cầu gì thêm nên không đề cập giải quyết.

Tại bản cáo trạng số 37 /CTr - VKS ngày 29 tháng 6 năm 2020 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đắk R’Lấp quyết định truy tố ra trước Toà án nhân dân huyện Đắk R’Lấp để xét xử bị can Bùi Anh T về tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự; truy tố ra trước Toà án nhân dân huyện Đắk R’Lấp để xét xử các bị can Nguyễn Thế D, Nguyễn Hoàng T, Nguyễn Công Tuấn A về tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại khoản 1 Điều 134 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo Bùi Anh T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, thừa nhận Viện kiểm sát truy tố bị cáo về tội: “Cố ý gây thương tích” là đúng và chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk R’Lấp, tỉnh Đắk Nông vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Bùi Anh T về tội: “Cố ý gây thương tích”. Sau khi đánh giá tính chất, mức độ của hành vi phạm tội và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Bùi Anh T phạm tội “Cố ý gây thương tích” Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:

Bị cáo Bùi Anh T từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Về vật chứng vụ án: Áp dụng khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự:

Đối với các vật chứng là 02 viên gạch loại đất nung 04 lỗ, cùng có kích thước (18x7,5x7,5)cm, các góc viên gạch có nhiều vết vỡ, mẻ không còn nguyên vẹn; 03 mảnh đĩa sứ vỡ không rõ hình dạng có kích thước (12,7x11,7x0,5)cm, (12,4x12x0,5)cm và (10,7x10,5x0,5) cm là vật chứng vụ án không còn giá trị sử dụng nên đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 bình cứu hỏa màu đỏ cao 53cm, đường kính 17cm, có nhiều vết trầy xước xung quanh là tài sản hợp pháp chị Nguyễn Thị D (Là chủ quán Karaoke O) nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đăk R’lấp đã trả lại tài sản cho các chủ sở hữu hợp pháp nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận.

Về trách nhiệm dân sự: Quá trình giải quyết vụ án bị cáo Bùi Anh T đã bồi thường cho người bị hại Lê Văn M số tiền 32.000.000 đồng, tại phiên tòa bị cáo và bị hại thỏa thuận bị cáo tiếp tục bồi thường cho bị hại số tiền 100.000.000 đồng (Một trăm triệu đồng) nên đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện thỏa thuận này.

Tại phiên toà bị cáo không bào chữa gì về hành vi phạm tội của mình mà chỉ đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại phiên tòa bị hại bãi nại và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Bùi Anh T.

Căn cứ các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo, lời khai của những người tham gia tố tụng khác có trong hồ sơ vụ án:

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1].Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Đắk R’lấp, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk R’lấp, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan và người tiến hành tố tụng đã thực hiện phù hợp với quy định của pháp luật.

[2]. Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Bùi Anh T khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, lời khai của bị hại, lời khai của người làm chứng, biên bản khám nghiệm hiện trường và phù hợp với tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện:

Chỉ vì mâu thuẫn nhỏ trong lúc hát karaoke mà bị cáo Bùi Anh T đã có hành vi dùng mảnh vỡ của đĩa sứ đánh một cái vào vùng mặt bên trái của anh Lê Văn M gây thương tích. Tại Bản kết luận giám định pháp y số 292/TgT, ngày 22 tháng 10 năm 2019 của Trung tâm giám định pháp y - Sở y tế tỉnh Đắk Nông kết luận thương tích của anh Lê Văn M như sau: Vết thương vùng đầu, mặt bên trái, đứt dây thần kinh số VII bên trái, đứt ống tuyến nước bọt mang tai trái; Gãy cung tiếp gò má trái; Tổn thương nhánh thần kinh số VII bên trái, tỷ lệ 10%; Gãy cung tiếp gò má trái can tốt, tỷ lệ 10%, cộng lùi bằng 09%; Vết thương phần mềm kích thước trung bình số lượng ít, tỷ lệ 07%, cộng lùi bằng 5,67%; Đứt ống tuyến nước bọt mang tai đã khâu nối kết quả tốt, không gây khô miệng, không gây rò nước bọt, không có tỷ lệ % thương tích. Tổng tỷ lệ % thương tích của Lê Văn M: 10% + 09% + 5,67% = 24 % (Hai mươi bốn phần trăm).

Do đó, có đủ căn cứ để kết luận bị cáo Bùi Anh T phạm tội“Cố ý gây thương tích” được quy định tại điểm d, khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự như kết luận của Kiểm sát viên là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Tại điểm d khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự quy định:

“1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm, hoặc bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Dùng hung khí nguy hiểm:

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 06 năm:

đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này” [3]. Đánh giá tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội bị cáo đã xâm phạm đến sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ. Bị cáo là người có đủ khả năng nhận thức rằng hành vi của mình là vi phạm pháp luật; xâm phạm sức khỏe của người khác; làm mất trật tự an toàn xã hội; gây tâm lý lo lắng trong quần chúng nhân dân; bị toàn xã hội lên án nhưng do ý thức coi thường pháp luật nên bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội. Hội đồng xét xử cần áp dụng một hình phạt nghiêm tương xứng với tính chất hành vi mà bị cáo đã gây ra để răn đe, cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành một công dân có ích cho xã hội và phòng ngừa chung.

Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo Hội đồng xét xử xét thấy cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục các bị cáo trở thành công dân biết chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, đồng thời răn đe, phòng ngừa chung.

[4]. Về tình tiết định khung hình phạt:

Hành vi của bị cáo vi phạm tình tiết định khung tăng nặng “Dùng hung khí nguy hiểm” nên bị xét xử ở điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự

[5]. Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Bị cáo phạm tội lần đầu, sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cãi, qúa trình giải quyết vụ án bị cáo đã tự nguyện bồi thường cho bị hại số tiền 32.000.000 đồng (Ba mươi hai triệu đồng), tại phiên tòa bị cáo và bị hại thỏa thuận bị cáo tiếp tục bồi thường cho bị hại số tiền 100.000.000 đồng (Một trăm triệu đồng), bị hại đã có đơn bãi nại và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[6]. Về trách nhiệm dân sự:

Quá trình giải quyết vụ án bị cáo Bùi Anh T đã bồi thường cho bị hại Lê Văn M số tiền 32.000.000 đồng (Ba mươi hai triệu đồng), bị hại đã có đơn bãi nại và xin giảm nhẹ hình phát cho bị cáo. Tại phiên tòa bị hại Lê Văn M yêu cầu bị cáo Bùi Anh T tiếp tục bồi thường cho bị hại số tiền 100.000.000 đồng (Một trăm triệu đồng), chia thành 05 đợt, cụ thể: Ngày 20/11/2020 bồi thường 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng); ngày 20/02/2021 bồi thường 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng); ngày 20/5/2021 bồi thường 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng); ngày 20/8/2021 bồi thường 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng); ngày 20/11/2021 bồi thường 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng) và bị cáo Bùi Anh T cũng chấp nhận mức bồi thường, thời gian bồi thường như bị hại yêu cầu. Xét thấy, sự thõa thuận của hai bên là tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội nên Hội đồng xét xử cần ghi nhận.

[7]. Các biện pháp tư pháp:

Đối với 02 viên gạch loại đất nung 04 lỗ, cùng có kích thước (18x7,5x7,5)cm, các góc viên gạch có nhiều vết vỡ, mẻ không còn nguyên vẹn; 03 mảnh đĩa sứ vỡ không rõ hình dạng có kích thước (12,7x11,7x0,5)cm, (12,4x12x0,5)cm, (10,7x10,5x0,5) cm) là vật chứng vụ án, không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 bình cứu hỏa màu đỏ, cao 53cm, đường kính 17cm, có nhiều vết trầy xước xung quanh là tài sản hợp pháp chị Nguyễn Thị D (Chủ quán Karaoke O), ngày 30/8/2019 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đăk R’lấp đã trả lại chị Nguyễn Thị D, xét thấy việc trả lại vật chứng không ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án và thi hành ánh nên cần chấp nhận.

[8]. Đối với hành vi của Nguyễn Thế D, Nguyễn Hoàng T, Nguyễn Công Tuấn A gây thương tích cho Bùi Anh T, ngày 24/8/2020 bị hại đã rút yêu cầu khởi tố theo quy định tai khoản 2 Điều 155 Bộ luật Tố tụng hình sự, nên Tòa án nhân dân huyện Đắk R’lấp đã quyết định đình chỉ vụ án đối với các bị cáo Nguyễn Thế D, Nguyễn Hoàng T, Nguyễn Công Tuấn A, theo Quyết định đình chỉ vụ án số 02/2020/HSST-QĐ, ngày 24/8/2020 nên không đề cập giải quyết.

Đối với hành vi của Cao Thanh T gây thương tích cho Bùi Anh T, tuy nhiên hiện tại T bị tai nạn giao thông, mất trí nhớ nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đắk R’lấp chưa thể tiến hành điều tra nên đã quyết định tách vụ án hình sự đối với bị can Cao Thanh T, theo Quyết định tách vụ án hình sự số 01/QĐ-CSĐT, ngày 14/5/2020 để xử lý sau.

Đối với hành vi của Lại Trung H gây thiệt hại về tài sản cho quán Karaoke O nhưng đây là hành vi vô ý, sau khi sự việc xẩy ra Lại Trung H đã bồi thường cho chị Nguyễn Thị D (Là chủ quán Karaoke O) số tiền 7.000.000 đồng, chị D không có yêu cầu gì thêm nên không đề cập giải quyết.

[9]. Xét quan điểm và đường lối xử lý của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk R’Lấp tại phiên tòa về tội danh, điều luật áp dụng, các biện pháp tư pháp, đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật nên HĐXX cần chấp nhận. Về mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk R’Lấp đề nghị đối với bị cáo Bùi Anh T có phần hơi nghiêm khắc nên HĐXX xét thấy cần xử phạt bị cáo T mức hình phạt thấp hơn mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị cũng đủ răn đe, giáo dục bị cáo.

[10]. Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sựu sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Bùi Anh T phạm tội “Cố ý gây thương tích” 2. Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Bùi Anh T 02 (hai) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

3. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 48 Bộ luật Hình sự; Điều 13, Điều 357, Điều 468, Điều 584, Điều 585, Điều 589 của Bộ luật Dân sự; Điều 220 của Bộ luật Tố tụng dân sự:

Ghi nhận sự tự nguyện thõa thuận giữa bị cáo Bùi Anh T và bị hại Lê Văn M về phần trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo Bùi Anh T phải bồi thường cho bị hại Lê Văn M số tiền 100.000.000 đồng (Một trăm triệu đồng), chia thành 05 đợt, cụ thể: Ngày 20/11/2020 bồi thường 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng); ngày 20/02/2021 bồi thường 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng); ngày 20/5/2021 bồi thường 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng); ngày 20/8/2021 bồi thường 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng); ngày 20/11/2021 bồi thường 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng).

Kể từ ngày anh Lê Văn M có đơn yêu cầu thi hành án đối với số tiền nên trên, nếu bị cáo Bùi Anh T chậm thanh toán thì hàng tháng bị cáo Bùi Anh T còn phải chịu khoản tiền lãi chậm thi hành theo mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định, tương ứng với số tiền và thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán.

4. Các biện pháp tư pháp: Căn cứ khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự; khoản 2, khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 02 viên gạch loại đất nung 04 lỗ, cùng có kích thước (18x7,5x7,5)cm, các góc viên gạch có nhiều vết vỡ, mẻ không còn nguyên vẹn; 03 mảnh đĩa sứ vỡ không rõ hình dạng có kích thước (12,7x11,7x0,5)cm, (12,4x12x0,5)cm, (10,7x10,5x0,5) cm) là vật chứng vụ án.

Chấp nhận việc Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đắk R’Lấp trả lại 01 bình cứu hỏa màu đỏ, cao 53cm, đường kính 17cm, có nhiều vết trầy xước xung quanh cho chị Nguyễn Thị D (Chủ quán Karaoke O) là chủ sở hữu hợp pháp.

5. Về án phí: Áp dụng khoản 2 điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự; Điều 21, Điều 23, Điều 24, Điều 26, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ quốc hội: Buộc bị cáo Bùi Anh T phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm và 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án hình sự sơ thẩm trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dânsự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

188
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 47/2020/HS-ST ngày 31/08/2020 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:47/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đắk R'Lấp - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về