TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 47/2020/HS-ST NGÀY 22/10/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Trong ngày 22 tháng 10 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 43/2020/TLST-HS ngày 01 tháng 10 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 45/2020/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 10 năm 2020, đối với bị cáo: Mai Chí D, sinh năm 1983, tại huyện C, tỉnh An Giang.
Nơi cư trú: ấp B, xã B, huyện C, tỉnh An Giang;
Nghề nghiệp: làm thuê;
Trình độ văn hoá (học vấn): 6/12;
Dân tộc: Kinh;
Giới tính: Nam;
Tôn giáo: Thiên Chúa;
Quốc tịch: Việt Nam;
Con ông Mai Văn U và bà Phan Thị L;
Tiền án: không;
Tiền sự: không.
Nhân thân: Từ nhỏ sống chung cha mẹ, đi học đến lớp 6 nghỉ; Năm 2009, có vợ theo đạo Thiên Chúa. Ngày 12/8/2002, bị Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang ra quyết định đưa vào cơ sở giáo dục trong thời gian 24 tháng, về hành vi “Gây rối trật tự công cộng” và “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong ngày 22/9/2004. Ngày 11/02/2009, bị Tòa án nhân dân quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong ngày 31/7/2009; đã nộp xong án phí.
Bị tạm giữ ngày 15/6/2020, chuyển tạm giam ngày 24/6/2020 đến nay;
Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
- Bị hại: Ông Trần Văn U, sinh năm 1977; nơi cư trú: ấp T, xã T, huyện C, tỉnh An Giang; vắng mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
1) Ông Võ Tấn T, sinh năm 1984; nơi cư trú: ấp A, xã H, huyện L, tỉnh Đồng Tháp; vắng mặt;
2) Ông Võ Văn N, sinh năm 1950; nơi cư trú: ấp A, xã H, huyện L, tỉnh Đồng Tháp; vắng mặt;
3) Bà Đặng Thúy Hà, sinh năm 1991; nơi cư trú: ấp B, xã B, huyện C, tỉnh An Giang; có mặt.
- Người làm chứng:
1) Trần Thị Mỹ Châu, sinh năm 1982;
2) Nguyễn Thị Kim Tuyền, sinh năm 1981;
3) Bùi Văn Lộc, sinh năm 1990;
4) Lê Phước Thành, sinh năm 1988.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 13 giờ ngày 19/5/2020, sau khi uống rượu với Bùi Văn L ở ấp T, xã T, huyện C, Mai Chí D đi bộ đến nơi đánh bài ăn thua bằng tiền cách nhà L khoảng 200 mét chơi. Khoảng 15 giờ cùng ngày, D thua hết tiền, ưên đường về, quan sát thấy trước nhà của Trần Văn U ngụ cùng ấp (cách nhà L khoảng 100 mét), có dựng 01 xe mô tô biển số 67L1-270.91, không có người trông giữ, chìa khóa còn gắn trên ổ khóa xe, nên D lấy trộm xe mô tô của U chạy đến tiệm cầm đồ của Võ Văn N ở ấp A, xã H, huyện L, tỉnh Đồng Tháp cầm cho Võ Tấn T giá 5.000.000đồng, tham gia đánh bạc thua hết 2.000.000đồng, còn lại tiêu xài cá nhân. Sau khi mất trộm tài sản, U đến Công an xã T trình báo. Riêng, D bỏ trốn đến ngày 15/6/2020, ra đầu thú.
Theo Kết luận định giá tài sản số 14/KL-HĐĐG ngày 29/5/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Chợ Mới: 01 xe môtô biển số 67L1-270.91, có giá trị 22.000.000đồng.
Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Chợ Mới ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự và Quyết định khởi tố bị can đối với Mai Chí D về hành vi “Trộm cắp tài sản”.
Tại bản cáo trạng số 43/CT-VKSCM ngày 29 tháng 9 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới đã truy tố bị cáo Mai Chí D về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận đã thực hiện hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng truy tố, không tranh luận với lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
Kiểm sát viên trình bày lời luận tội: Giữ nguyên Quyết định truy tố bị cáo Mai Chí D về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.
Đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù về tội trộm cắp tài sản; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận đã thực hiện chiếm đoạt tài sản người bị hại. Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra, truy tố; phù hợp với lời khai của bị hại và những người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác được lưu trong hồ sơ vụ án. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Bị cáo Mai Chí D đã thực hiện lén lút chiếm đoạt tài sản, theo kết quả định giá là 22.000.000đồng nên hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” là hoàn toàn đúng người, đúng tội và phù hợp với quy định của pháp luật.
[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng về hành vi của bị cáo nhận thấy: Quyền sở hữu là một trong những quyền cơ bản của mỗi công dân được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Để sở hữu được tài sản, người lao động phải trải qua quá trình lao động vất vả mới tạo lập được. Cho nên, những ai xâm phạm đến quyền sở hữu của người khác sẽ bị áp dụng chế tài nghiêm khắc là hình phạt. Bị cáo đang ở độ tuổi lao động, lẽ ra, phải rèn luyện bản thân thành một công dân có ích, tích cực lao động để tạo lập tài sản chính đáng cho bản thân nhưng chỉ vì hám lợi, lười lao động, muốn nhanh chóng có được tài sản mà không phải tốn công sức lao động nhiều nên bị cáo đã thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến quyền sở hữu của người khác, xâm phạm trật tự quản lý của Nhà nước mà còn gây mất trật tự trị an tại địa phương; gây tâm lí hoang mang trong quần chúng nhân dân, ảnh hưởng đến cuộc sống, tâm lí của người dân, gây bức xúc trong quần chúng nhân dân. Do đó, cần có hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để đảm bảo tính răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.
[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay đã xác định được: bị cáo đã đầu thú, tỏ rõ thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo đã tác động gia đình bồi thường khắc phục hậu quả, người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự nên có xem xét cho bị cáo khi quyết định hình phạt; Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[5] Về hình phạt bổ sung, do bị cáo có thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung.
[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại ông Trần Văn U đã nhận lại xe, không yêu cầu bị cáo bồi thường nên không xét; Người liên quan bà Đặng Thúy H bỏ số tiền 5.000.000đồng đến tiệm cầm đồ của Võ Văn N chuộc lại xe trả cho người bị hại U, H không yêu cầu bị cáo trả lại tiền chuộc xe nên không xét.
[7] Bị cáo Mai Chí D khai sau khi lấy trộm xe mô tô đem cầm cho Võ Tấn T, ông Võ Tấn T, ông Võ Văn N (là chủ tiệm cầm đồ) không biết xe môtô D cầm là do phạm tội mà có, nên Cơ quan điều tra không xử lý.
[8] Mai Chí D khai sau tham gia đánh bạc ăn thua bằng tiền, là vi phạm pháp luật, nhưng không thu được vật chứng, ngoài lời khai cửa D chưa có chứng cứ khác, Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh làm rõ, xử lý sau.
[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017:
Tuyên bố bị cáo Mai Chí D phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Xử phạt: Bị cáo Mai Chí D 01 (một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt của bị cáo được tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam ngày 15/6/2020 (Ngày mười lăm tháng sáu năm hai nghìn không trăm hai mươi).
2. Về án phí: Căn cứ các Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Mai Chí D phải chịu 200.000đồng (Bằng chữ: Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
3. Về quyền kháng cáo: Căn cứ các Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự: Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 47/2020/HS-ST ngày 22/10/2020 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 47/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 22/10/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về