Bản án 47/2020/HS-ST ngày 20/11/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH A, TỈNH HẬU GIANG

BẢN ÁN 47/2020/HS-ST NGÀY 20/11/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 20 tháng 11 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 57/2020/TLST-HS ngày 28 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 56/2020/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:

Lê Thị P - sinh năm 1973; tên gọi khác: Không có; nơi sinh: Tại huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang. Nơi cư trú: Ấp T, thị trấn MN, huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 04/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Cha: Nguyễn Văn H (đã chết) và mẹ bà Lê Thị E; Bị cáo: Sống chung như vợ chồng với ông Ngô Xuân H và có 01 người con; Nhân thân: Ngày 09/11/2007, Lê Thị P bị Tòa án nhân dân huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang xử phạt 15 tháng tù về tội trộm cắp tài sản. Ngày 16/8/2008, Lê Thị P chấp hành xong hình phạt. Đã được xóa án tích. Tiền án: 01. Ngày 24/5/2017, Lê Thị P bị Tòa án nhân dân huyện Thới Lai, thành phố Cần Thơ xử phạt 02 năm 06 tháng tù giam về tội trộm cắp tài sản. Tiền sự: Không. Bị cáo bị áp dụng Lệnh cấm khỏi nơi cư trú, hiện tại đang tại ngoại, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người bị hại: Nguyễn Thị Ngọc T – sinh năm 1982 Nguyễn Thanh H, sinh năm 1978; cùng địa chỉ: Ấp T, thị trấn RG, huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang. (Vắng mặt).

- Người làm chứng: Nguyễn Thị N, Nguyễn Thành T; cùng địa chỉ: Ấp, thị trấn RG, huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang. (Vắng mặt).

Lâm Thị Kiều T; địa chỉ: Ấp P, xã TH, huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 08 giờ 00 phút, ngày 03/8/2020, Lê Thị P thuê xe ôm từ thị trấn MN đến chợ CT để tìm tài sản lấy trộm, khi đi P chuẩn bị một cái áo mưa và một xỏ xách đan bằng dây nhựa. Khi đến chợ CT thì trời mưa nên P thuê xe ôm chạy về, trên đường về P nhìn thấy tiệm tạp hóa của chị Nguyễn Thị Ngọc T thuộc ấp T, thị trấn RG, huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang không ai trông coi nên P nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. P xuống xe ôm, giả vờ trú mưa và hỏi mua một bịt bột ngọt, một 1kilogam đường cát và một chai C2 ướp lạnh do hết C2 nên P kêu chị T lấy 01 chai trà xanh không độ, lợi dụng lúc chị T vào trong lấy trà xanh, P nhanh chóng lấy 01 thùng bia Tiger loại 330ml bỏ vào vỏ xách đã chuẩn bị từ trước. Sau đó, P dùng áo mưa che đậy thùng bia tránh sự phát hiện của chị T, khi chị T đi ra Phường trả tiền 35.000 đồng cho chị T rồi kêu xe ôm của ông Nguyễn Thành T chạy về thị trấn MN. Sau đó, chị T kiểm tra lại chỗ để bia thì thấy bị trống và nghi ngờ P lấy trộm thùng bia nên chị T nói với anh Nguyễn Thanh H (chồng chị T), anh H gọi điện cho anh T và kêu anh T chở P quay trở lại. Anh H, anh T chở P cùng tang vật đến Công an thị trấn RG trình báo làm rõ sự việc.

Vật chứng tạm thu được: 01 thùng bia 24 lon, nhãn hiệu Tiger, loại 330ml còn nguyên vẹn; 01 chiếc áo mưa trong suốt có chấm bi tròn xanh dương; 01 vở xách nhựa, đen caro mùa xanh đỏ. Ngày 23/9/2020, Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an huyện Châu Thành A ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại cho anh Nguyễn Thanh H 01 thùng bia 24 lon, nhãn hiệu Tiger, loại 330ml còn nguyên vẹn.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 47/KL-ĐGTS ngày 19/8/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang đã kết luận: 01 thùng bia 24 lon, nhãn hiệu Tiger, loại 330ml có giá 335.000 đồng.

Tại phiên tòa, bị cáo Lê Thị P khai nhận hành vi phạm tội của mình, vật chứng thu giữ như cáo trạng đã nêu.

Tại Cáo trạng số 56/CT-VKS-HCTA ngày 26/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang truy tố bị cáo Lê Thị P về tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành A vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Lê Thị P về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 1 Điều 173; Điều 38; điểm h,s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Lê Thị P từ 09 tháng – 12 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 chiếc áo mưa trong suốt có chấm bi tròn xanh dương; 01 vỏ xách nhựa, đen caro mùa xanh đỏ.

Về án phí hình sự: Đề nghị áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội. Bị cáo Lê Thị P phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

Tại phiên tòa người bị hại Nguyễn Thị Ngọc T, Nguyễn Thanh H vắng mặt nên không có lời trình bày.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Về hành vi, quyết định tố Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Thành A; Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành A; Điều tra viên; kiểm sát viên đã thực hiện theo quy định pháp luật về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay bị cáo, bị hại không có ý kiến hay khiếu nại hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của các cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện hợp pháp.

[1.2] Đối với người hại hại Nguyễn Thị Ngọc T, Nguyễn Thanh H, người làm chứng Nguyễn Thị N, Lâm Thị Kiều T, Nguyễn Thành T vắng mặt tại phiên Tòa, xét thấy lời khai của người bị hại, người làm chứng đã thể hiện rõ trong hồ sơ nên việc vắng mặt của họ không ảnh hưởng đến quá trình xét xử nên Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 292, Điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự xét xử vắng mặt người bị hại, người làm chứng.

[2] Về nội dung vụ án: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo Lê Thị P thừa nhận hành vi phạm tội. Đối chiếu lời thừa nhận của người bị hại, người làm chứng và các tài liệu khác trong hồ sơ vụ án là phù hợp, chứng minh được như sau: Vào khoảng 11 giờ 00 phút, ngày 03/8/2020, bị cáo Lê Thị P có hành vi lén lút lấy trộm thùng bia Tiger của tiệm tạp hóa Nguyễn Thị Ngọc T, theo kết quả định giá thùng bia có giá trị 335.000đồng. Mặc dù, giá trị tài sản bị cáo P trộm cắp dưới 2.000.000 đồng, tuy nhiên do trước đây bị cáo đã bị kết án về tội trộm cắp tài sản và chưa được xóa án tích nên lần này bị cáo bị Viện kiểm sát truy tố về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người đúng tội.

Hội đồng xét xử xét thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự, trị an tại địa phương. Bị cáo nhận thức được hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật hình sự và sẽ bị xử lý nhưng vì động cơ tham lam, tư lợi, muốn có tài sản sử dụng không phải bằng sức lao động của mình nên đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội, bất chấp hậu quả và pháp luật. Bị cáo là người có nhân thân xấu, đã từng bị Tòa án nhân dân huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang, xử phạt 15 tháng tù về tội trộm cắp tài sản, đã được xóa án tích và bị Tòa án nhân dân Thới Lai, thành phố Cần Thơ, xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội trộm cắp tài sản, chưa xóa án tích, nay bị cáo lại tiếp tục phạm tội mới. Do đó, cần xử phạt bị cáo mức án tương xứng để giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[3] Xét tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có.

[4] Xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt không lớn; Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; bị cáo có trình độ học vấn thấp, am hiểu pháp luật hạn chế là những tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 chiếc áo mưa trong suốt có chấm bi tròn xanh dương; 01 vỏ xách nhựa, đen caro mùa xanh đỏ.

[6] Từ những phân tích nêu trên xét thấy đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ chấp nhận.

[7] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điểm b khoản 1 Điều 173; điểm h,s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung 2017; Điều 292, Điều 293, Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tuyên bố: Bị cáo Lê Thị P phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

1. Xử phạt: Bị cáo Lê Thị P 09 (chín) tháng tù giam. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 chiếc áo mưa trong suốt có chấm bi tròn xanh dương; 01 vỏ xách nhựa, đen caro mùa xanh đỏ.

3.Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội. Buộc bị cáo Lê Thị P phải chịu là 200.000 đồng.

4. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai theo quy định tại nơi cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

308
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 47/2020/HS-ST ngày 20/11/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:47/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành A - Hậu Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về