TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGA SƠN - TỈNH THANH HOÁ
BẢN ÁN 47/2020/HSST NGÀY 17/11/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 17 tháng 11 năm 2020, tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 38/2020/HSST, ngày 08 tháng 10 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 44/2020/QĐXXST-HS, ngày 04 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:
Họ và tên: Ninh Viết D - sinh năm 1995. Trú tại: Thôn Đông Thôn, xã X, huyện H, tỉnh Thanh Hoá. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Quốc tịch: Việt Nam. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trình độ học vấn: 9/12. Con ông Ninh Viết A và bà Hoàng Thị T. Vợ: Lê Thị L – sinh năm 2000. Bị cáo có 01 con sinh năm 2020. Tiền sự: Không.
Tiền án: Ngày 29/11/2019, bị Tòa án nhân dân huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo đã chấp hành xong bản án ngày 25/3/2020, (chưa được xóa án tích).
Nhân thân: Ngày 24/5/2012 bị Tòa án nhân dân huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 06 (sáu) tháng cải tạo không giam giữ về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, được trừ đi 16 (mười sáu) ngày tạm giữ, tạm giam. Bị cáo còn phải chấp hành 04 (bốn) tháng 12 (mười hai) ngày, (đã được xóa án tích). Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/6/2020 đến nay (có mặt).
* Bị hại: Ông Mai Sỹ A – sinh năm 1975 (có mặt).
Trú tại: Thôn Nam Lộc, xã H, huyện S, tỉnh Thanh Hoá.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Anh Đặng Văn D – sinh năm 1991 (có mặt).
Trú tại: Thôn Thanh Bình, xã X, huyện H, Thanh Hóa.
* Người làm chứng:
1. Anh Lê Hoàng C – sinh năm 1987 (vắng mặt) Trú tại: Thôn Thần Xuân, xã X, huyện H, Thanh Hoá.
2. Bà Ninh Thị C – sinh năm 1958 (vắng mặt) Trú tại: Thôn Nam Lộc, xã H, huyện S, tỉnh Thanh Hoá.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngày 26/6/2020, Công an huyện Nga Sơn nhận được tin báo về việc gia đình anh Mai Sỹ A ở thôn Nam Lộc, xã H, huyện S, tỉnh Thanh Hóa bị mất 01 đàn Organ nhãn hiệu Yamaha S910 và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy S4, tổng trị giá khoảng 17.000.000đ. Cơ quan CSĐT Công an huyện Nga Sơn đã tiến hành xác minh và làm việc với anh Lê Hoàng C, anh C trình bày: Chiều ngày 26/6/2020 anh C điều khiển xe ô tô BKS 36A-144.68 chở Ninh Viết D và Trịnh Văn T từ huyện Hoằng Hóa đến huyện Nga Sơn chơi rồi quay về. Ngày 27/6/2020 được sự động viên, thuyết phục Ninh Viết D đã ra đầu thú khai nhận hành vi trộm cắp 01 đàn Organ và 01 điện thoại di động vào chiều ngày 26/6/2020 tại thôn Nam Lộc, xã Nga Hải, huyện Nga Sơn, đồng thời giao nộp cho Cơ quan CSĐT 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy S4.
Qúa trình điều tra Cơ quan CSĐT Công an huyện Nga Sơn đã xác định được: Khoảng 14 giờ ngày 26/6/2020, Ninh Viết D đến nhà anh Nguyễn Trọng G nhờ anh G gọi xe taxi đi chơi, anh G gọi điện thoại cho anh Lê Hoàng C là lái xe taxi cho hãng Đức Minh đến nhà mình đón D. Khi đi D rủ Trịnh Văn T ở thôn Tây Đại, xã X, huyện H đi cùng sang huyện Nga Sơn.
Anh C điều khiển xe ô tô chở D và T đến thôn Nam Lộc, xã H, huyện S, D một mình xuống xe đi bộ vào nhà bác ruột là Ninh Thị C chơi một lúc rồi D đi ra chổ xe taxi đang đợi. Trên đường ra chổ xe ta xi D nhìn thấy nhà ông Mai Sỹ A có để nhiều loa đài trước cửa nhà, D đi vào nhà thấy trong nhà chỉ có một bà cụ già khoảng 90 tuổi. Qua tiếp xúc, D biết bà cụ đã cao tuổi không minh mẫn, D quan sát trong nhà thấy 01 chiếc điện thoại di động để trên bàn và 01 chiếc đàn Organ đựng trong túi da để ở góc phòng nên đã nảy sinh ý định trộm cắp. D đi ra xe taxi ngồi vào ghế sau chổ T và hỏi T “trong nhà có đàn có lấy không?” T trả lời “lấy thì lấy”, lúc này Lê Hoàng C đang sử dụng điện thoại nên không nghe được nội dung trao đổi giữa D và T. D xuống xe đi vào nhà ông A lấy 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy S4 và 01 đàn Organ nhãn hiệu Yamaha S910 đi ra xe và giục C điều khiển xe đi nhanh về huyện Hoằng Hóa.
Trên xe, D hỏi có biết ai mua hoặc nhận cầm cố chiếc đàn không, C nghe và nghĩ là D mượn đàn hoặc trộm đàn của nhà bác. Tuy nhiên, vì muốn D có tiền để trả tiền taxi cho mình nên C nói “để hỏi giúp”. C điện thoại cho anh Đặng Văn D và nói “có người bạn cần tiền đi chơi bài nên muốn bán chiếc đàn”, anh D đồng ý và hẹn mang đàn đến nhà để xem. Anh C trở D và T đến nhà anh D, sau khi xem đàn anh D và D thỏa thuận cầm cố chiếc đàn với giá 5.000.000đ (Năm triệu đồng). Nhận tiền từ anh D, D đưa cho anh C 1.500.000đ (Một triệu năm trăm nghìn đồng) trả tiền taxi (gồm cả tiền D nợ anh C đi taxi ngày hôm trước), số tiền còn lại D chuộc chiếc điện thoại hết 1.000.000đ (Một triệu đồng) và cùng T, G, C đi ăn uống, tiêu xài hết.
Ngày 27/6/2020, anh Đặng Văn D đã tự nguyện giao nộp 01 chiếc đàn Organ nhãn hiệu Yamaha S910 và 01 bao da đựng đàn cho Cơ quan CSĐT Công an huyện Nga Sơn.
Ngày 03/7/2020, Hội đồng định giá tài sản huyện Nga Sơn kết luận: Tại thời điểm bị trộm cắp, chiếc đàn Organ nhãn hiệu Yamaha S910 có giá trị 5.500.000đ; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy S4 có giá trị 300.000đ. Tổng giá trị tài sản bị trộm cắp là 5.800.000đ (Năm triệu tám trăm nghìn đồng).
Ngày 14/7/2020 Cơ quan CSĐT Công an huyện Nga Sơn đã trả lại cho ông Mai Sỹ A 01 chiếc đàn Organ nhãn hiệu Yamaha S910; 01 bao da đựng đàn và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy S4. Sau khi nhận lại tài sản ông A không có yêu cầu gì thêm.
Đối với anh Đặng Văn D khi nhận cầm cố chiếc đàn của D, anh D không biết đó là tải sản do trộm cắp mà có, nên hành vi của anh D không phạm tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Anh D yêu cầu D phải hoàn trả số tiền 5.000.000đ (Năm triệu đồng).
Đối với anh Lê Hoàng C không biết rỏ việc D trộm cắp đàn, có nghi ngờ D trộm cắp hoặc mượn đàn của nhà bác, nhưng C không hỏi và D cũng không nói nguồn gốc chiếc đàn. Cho nên, hành vi của Lê Hoàng C không phạm tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.
Đối với Trịnh Văn T, Cơ quan CSĐT Công an huyện Nga Sơn đã triệu tập nhiều lần để làm việc, nhưng T đã bỏ đi khỏi địa phương sau khi xảy ra vụ việc, gia đình và chính quyền địa phương không biết T đi đâu. Cho nên, Cơ quan CSĐT Công an huyện Nga Sơn quyết định tách hành vi của Trịnh Văn T để truy tìm, điều tra và xử lý sau theo quy định của pháp luật.
Tại bản Cáo trạng số 40/CT-VKS-KT ngày 05/10/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Nga Sơn đã truy tố bị cáo Ninh Viết D về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.
Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
Đại diện VKSND huyện Nga Sơn tại phiên tòa luận tội đối với bị cáo vẫn giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng. Căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả đối với hành vi phạm tội và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Ninh Viết D phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 173; Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Ninh Viết D từ 12 đến 15 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 27/6/2020.
Về trách nhiệm dân sự: Ông Mai Sỹ A đã nhận lại tài sản bị trộm cắp, không có yêu cầu gì thêm, nên không đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.
Buộc bị cáo Ninh Viết D phải hoàn trả lại cho anh Đặng Văn D số tiền 5.000.000đ (Năm triệu đồng).
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên toà, bị cáo Ninh Viết D đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng đã truy tố. Lời khai nhận tội của bị cáo đã thống nhất với lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người làm chứng về thời gian, địa điểm, loại tài sản mà bị cáo đã chiếm đoạt và các chứng cứ khác phản ánh tại hồ sơ, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:
Chiều ngày 26/6/2020, Ninh Viết D đã lợi dụng sự sơ hở trong việc quản lý tài sản, lén lút trộm cắp của gia đình ông Mai Sỹ A 01 chiếc đàn Organ nhãn hiệu Yamaha S910 và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy S4 với tổng trị giá 5.800.000đ (Năm triệu, tám trăm nghìn đồng). Như vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nga Sơn truy tố bị cáo Ninh Viết D về tội "Trộm cắp tài sản" theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[2] Xét tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, Hội đồng xét xử thấy rằng: Đây là vụ án có tính chất ít nghiêm trọng, tuy nhiên bị cáo là người lười lao động nhưng muốn hưởng thụ, nên đã thực hiện hành vi phạm tội. Bị cáo đã lợi dụng sự sơ hở trong việc quản lý tài sản của chủ sở hữu, khi có điều kiện là bị cáo thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Bị cáo thực hiện hành vi một cách liều lĩnh, táo bạo, bất chấp giữa ban ngày. Hành vi trộm cắp tài sản của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự an ninh chung, gây tâm lý hoang mang, lo lắng, bức xúc cho quần chúng nhân dân trong việc quản lý tài sản. Vì vậy, cần có đường lối xử lý nghiêm khắc đối với bị cáo, nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.
[3] Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Ninh Viết D là người có nhân thân xấu, ngày 24/5/2012 bị Tòa án nhân dân huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 06 tháng cải tạo không giam giữ về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, đã chấp hành xong bản án. Ngày 29/11/2019 bị Tòa án nhân dân huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 06 tháng tù về tội “trộm cắp tài sản”, đã chấp hành xong bản án ngày 25/3/2020, chưa được xóa án tích. Nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cho mình để tu dưỡng, rèn luyện trở thành công dân tốt, mà nay tiếp tục phạm tội.
Bị cáo tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà đã thành khẩn khai báo hành vi phạm tội, tự nguyện ra đầu thú. Cho nên, bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Bị cáo phải chịu một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đó là tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.
Tuy nhiên, hiện nay vợ bị cáo là Lê Thị L đã bỏ nhà đi từ tháng 6 năm 2020, để lại con còn nhỏ 09 (chín) tháng tuổi cho bố mẹ bị cáo nuôi dưỡng. Cho nên, khi quyết định hình phạt cũng cần được xem xét đến điều kiện, hoàn cảnh của gia đình bị cáo, để giảm một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo có cơ hội sớm về chăm sóc, nuôi dưỡng con nhỏ, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.
[4] Từ những nhận xét đánh giá trên, Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân tốt, biết chấp hành pháp luật.
[5] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại ông Mai Sỹ A đã nhận lại đủ tài sản bị trộm cắp, không có yêu cầu gì thêm, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Đối với anh Đặng Văn D khi nhận cầm cố chiếc đàn của Ninh Viết D, anh D không biết đó là tải sản do trộm cắp mà có, nên anh D không phạm tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Anh D yêu cầu D phải hoàn trả lại số tiền 5.000.000đ. Cho nên, buộc bị cáo D phải có trách nhiệm hoàn trả lại cho anh D số tiền 5.000.000đ (Năm triệu đồng) là phù hợp với quy định của pháp luật.
[6] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo là người lao động tự do, không có việc làm và không có thu nhập ổn định, nên không áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự đối với bị cáo.
[7] Về vật chứng của vụ án: Đã được giải quyết tại Cơ quan CSĐT Công an huyện Nga Sơn, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[8] Về án phí: Buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự theo quy định của pháp luật.
[9] Qúa trình điều tra, truy tố; Điều tra viên và Kiểm sát viên đã thực hiện đúng nhiệm vụ, trách nhiệm, quyền hạn theo quy định tại các Điều 37; Điều 42 của Bộ luật tố tụng hình sự.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; Điều 38; khoản 2 Điều 47; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự. Khoản 2 Điều 136; Điều 331, 333 của Bộ luật tố tụng hình sự. Điều 131 của Bộ luật dân sự. Điểm a, c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
* Tuyên bố: Bị cáo Ninh Viết D phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
* Xử phạt: Bị cáo Ninh Viết D 10 (mười) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 27/6/2020.
* Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo Ninh Viết D phải hoàn trả cho anh Đặng Văn D số tiền 5.000.000đ (Năm triệu đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án, nếu người phải thi hành không thi hành, thì hàng tháng người phải thi hành còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi xuất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.
* Về án phí: Buộc bị cáo Ninh Viết D phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự.
* Về quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 47/2020/HSST ngày 17/11/2020 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 47/2020/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Nga Sơn - Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 17/11/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về