TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ HT, TỈNH TN
BẢN ÁN 47/2020/HSST NGÀY 16/07/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 16 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã HT, tỉnh TN xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 45/2020/HSST ngày 02 tháng 6 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 48/2020/QĐXXST-HS ngày 01/ 7 /2020 đối với bị cáo:
Họ và tên: Võ Minh Nh, sinh ngày: 05/01/2002 tại Thành phố CT; Nơi cư trú: Số 192/34B, đường Nguyễn Thông, khu phố 3, phường An Thới, quận BT, Thành phố CT; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ văn hoa : 6/12; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch Việt Nam, Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Con ông Võ Thành Đ và bà Bùi Thị Nh.; Bị cáo chưa có vợ con.
- Tiền sự: Không có.
- Về nhân thân:
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 18/2019/HS-ST ngày 14/01/2019 của Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều, Thành phố CT đã áp dụng khoản 1, Điều 173, điểm b, i, s, khoản 1, khoản 2, Điều 51; Điều 65; Điều 91; khoản 1, Điều 101 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo 01 năm tù 06 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 36 tháng tính từ ngày tuyên án về tội “Trộm cắp tài sản” (theo bản án bị cáo phạm tội ngày 26/5/2018, không bị tạm giữ, tạm giam).
- Bị tạm giữ ngày 24/3/2020, tạm giam ngày 02/4/2020. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
* Bị hại: Chị Lương Thị Ánh Ng, sinh năm 1989 (có đơn xin vắng mặt).
Địa chỉ: Số 8/58, khu phố 3, phường Long Hoa, thị xã HT, tỉnh TN.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án Đ tóm tắt như sau:
Ngày 21/3/2020, Võ Minh Nh và hai người bạn tên Luân và Trí (không rỏ nhân thân, địa chỉ) cùng nhau uống nước ở quán cà phê không tên thuộc khu vực cửa số 4, Trung tâm thương mại Long Hoa. Đến khoảng 01 giờ 30 phút, ngày 22/3/2020, Nh hỏi mượn xe mô tô của Luân nói đi công việc. Khi mượn Đ xe, Nh một mình điều khiển đến quán cà phê “Minh Uyên” thuộc khu phố 3, phường Long Hoa, thị xã HT, tỉnh TN do chị Lương Thị Ánh Ng, sinh năm 1989 là chủ quán. Đến nơi, Nh dựng xe cặp lề đường trèo qua hàng rào vào trong quán, đứng lên quầy pha chế dùng tay xoay ống kính Camera sang hướng khác (do Camera đang hướng vào quầy thu ngân), sau đó lấy chìa khóa mở tủ (Nh là nhân viên củ của quán đã bị cho nghỉ việc trước đó nên biết nơi để chìa khóa) lấy trộm của chị Ng 01(một) dây chuyền bằng vàng 18K, 01 (một) lắc tay bằng vàng 18K, 01 (một) nhẫn bằng vàng 18K, (tổng trọng lượng là 02 chỉ vàng 18k) và 800.000 đồng bỏ vào túi quần, xong xoay ống kính Camera về vị trí ban đầu rồi trèo rào ra ngoài điều khiển xe trở lại quán tiếp tục uống nước với Trí và Luân. Đến khoảng 03 giờ cùng ngày, Nh nhờ Luân chở đến bến xe khách TN đón xe về Thành phố CT, tại đây Nh vào tiệm vàng “Sơn Ca” (không xác định Đ địa chỉ) bán tất cả số vàng trộm Đ với giá 3.000.000 đồng, lấy tiền tiêu xài cá nhân, đến ngày 24/3/2020 thì Nh ra đầu thú.
Tại Kết luận định giá tài sản số 19 ngày 27/3/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện HT kết luận: 01 dây chuyền bằng vàng 18K; 01 lắc tay bằng vàng 18K, 01 nhẫn bằng vàng 18K, có tổng giá trị là 6.338.200 đồng.
Qua xác minh, Nh không có tài sản nên không kê biên.
Về bồi thường thiệt hại: Nh đã bồi thường cho bị hại 6.400.000 đồng, bị hại không yêu cầu gì thêm.
Đối với Trí và Luân, hiện chưa xác định Đ, khi nào làm rõ xử lý sau Tại Cáo trạng số: 47/CT-VKSHT ngày 31 tháng 5 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã HT, tỉnh TN đã truy tố bị cáo Võ Minh Nh về tội “Trộm cắp tài sản” Đ quy định tại khoản 1, Điều 173 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hoà Thành, tỉnh TN giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:
-Tuyên bố bị cáo Võ Minh Nh phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
- Áp dụng khoản 1, Điều 173; Điều 38; điểm b, s, khoản 1, khoản 2, Điều 51; Điều 56; khoản 5, Điều 65 Bộ luật Hình sự:
Xử phạt bị cáo Võ Minh Nh từ 01 năm tù đến 01 năm 06 tháng tù.
Tổng hợp hình phạt theo quy định của pháp luật.
Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo do bị cáo không có tài sản.
- Áp dụng Điều 48 Bộ luật Hình sự: Ghi nhận bị cáo Võ Minh Nh đã bồi thường cho chị Lương Thị Ánh Ng 6.400.000 đồng và chị Ng không yêu cầu bồi thường thêm.
Bị cáo Nh nói lời sau cùng: Bị cáo đã ăn năn hối cải, bị cáo nhận thức việc làm của bị cáo là vi phạm pháp luật, xin Hội đồng xét xử xử phạt mức án nhẹ để sớm đoàn tụ với gia đình.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã Đ tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an thị xã HT, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã HT, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Như vậy, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi của bị cáo thể hiện:
Tại phiên tòa, bị cáo Nh khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội lời nhận tội của bị cáo phù hợp với các tài liệu , chứng cứ mà Cơ quan điều tra thu thập được có trong hồ sơ vụ án nên có đủ cơ sở xác định:
Vào khoảng 01 giờ 30 phút ngày 22/3/2020, Võ Minh Nh có hành vi lén lút lấy 01 sợi dây chuyền bằng vàng 18K, 01 lắc tay bằng vàng 18K, 01 nhẫn bằng vàng 18K và 800.000 đồng của chị Lương Thị Ánh Ng có tổng giá trị 7.138.200 đồng.
Hành vi củ a bị cáo Võ Minh Nh đã phạm tội “Trộm cắp tài sản ” đươc quy định tai khoản 1, Điêu 173 Bộ luật Hình sự. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân thị xã HT, tỉnh TN giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung Cáo trạng và lời luận tội là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3] Vụ án mang tính chất ít nghiêm trong, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác Đ pháp luật bảo vệ, đồng thời gây mất trật tự, trị an tại địa phương.
Năm 2019, bị cáo bị Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều, Thành phố CT xử phạt 01 năm tù 06 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 36 tháng về tội “Trộm cắp tài sản”, nhưng bị cáo không chịu lao động chân chính để nuôi sống bản thân mình nay bị cáo tiếp tục trộm cắp tiền, vàng của chị Ng trong thời gian thử thách của án treo, nên bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Do đó, cần xử phạt bị cáo với mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo và tổng hợp hình phạt của 02 bản án theo quy định của pháp luật.
Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã bồi thường cho chị Ng 6.400.000 đồng đươc q uy đinh tai điêm b, s, khoản 1, Điêu 51 Bô luât Hinh sư ; bị cáo đầu thú; bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Đ quy định tại khoản 2, Điều 51; Bộ luật Hình sự.
Tình tiết tăng nặng: Không có.
Miên hinh phat bô sung đối với bị cáo vì bị cáo không có tài sản.
[4] Về trách nhiệm dân sự:
Bị cáo đã bồi thường cho chị Ng 6.400.000 đồng và chị Ng không yêu cầu bồi thường thêm nên nghi nhận.
[5] Bị cáo phải chịu án phí theo luật định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Võ Minh Nh phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
1. Áp dụng khoản 1, Điều 173; Điều 38; điểm b, s, khoản 1, khoản 2, Điều 51; Điều 56; khoản 5, Điều 65 Bộ luật Hình sự:
Xử phạt bị cáo Võ Minh Nh 09(chín) tháng tù.
Tổng hợp hình phạt 01 năm 06 tháng tù của bản án số 18/2019/HS-ST ngày 14/01/2019 của Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều, Thành phố CT, buộc bị cáo Võ Minh Nh phải chấp hành hình phạt chung là 02 (hai) năm 03 (ba) tháng tù.
Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 24/3/2020.
2. Về trách nhiệm dân sự:
Áp dụng Điều 48 Bộ luật Hình sự:
Ghi nhận bị cáo Võ Minh Nh đã bồi thường cho chị Lương Thị Ánh Ng 6.400.000 đồng và chị Ng không yêu cầu bồi thường thêm.
4. Về án phí: Bị cáo Võ Minh Nh phải chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Báo cho bị cáo, chị Ng biết có quyền kháng cáo lên Toa an nhân dân tinh TN trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp quyết định Đ thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người Đ thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án Đ thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 47/2020/HSST ngày 16/07/2020 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 47/2020/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Hoà Thành - Tây Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 16/07/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về