Bản án 47/2020/HS-ST ngày 09/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N – TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 47/2020/HS-ST NGÀY 09/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 09 tháng 9 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Bình mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 45/2020/TLST- HS ngày 05 tháng 8 năm 2020. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 46/2020/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 8 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Văn Kh(tên gọi khác: Không), sinh năm 1990 tại xã L, huyện N, tỉnh Ninh Bình. Nơi cư trú: thôn H, xã L, huyện N, tỉnh Ninh Bình. Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 9/12. Con ông Nguyễn Văn T và bà Quách Thị L.

Vợ, con: chưa có. Tiền án, tiền sự: không.

Lch sử bản thân:

-  Ngày 24/9/2013 Ủy ban nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Bình ra Quyết định số 3303 đưa Nguyễn Văn Kh vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, thời hạn 24 tháng.

- Ngày 28/01/2019 Công an huyện N, tỉnh Ninh Bình ra Quyết định số 41 xử lý hành chính phạt cảnh cáo về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 13/6/2020 đến ngày 15/6/2020 chuyển tạm giam. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình. ( bị cáo có mặt tại phiên tòa).

2. Quách Đại D(tên gọi khác: Không) sinh năm 1982 tại xã L, huyện N, tỉnh Ninh Bình. Nơi cư trú: thôn H, xã L, huyện N, tỉnh Ninh Bình. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do;

Trình độ học vấn: 0/12. Giới tính: Nam; Con ông Quách Sỹ T và bà Quách Thị N. Có vợ là Đinh Thị Ph sinh năm 1981. Bị cáo có 03 con, con lớn sinh năm 2000, con nhỏ sinh năm 2014. Tiền án, tiền sự: không.

Lch sử bản thân:

- Ngày 22/5/2007 bị Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Bình xử phạt 24 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

- Ngày 08/5/2013 bị Tòa án nhân dân thành phố N, tỉnh Ninh Bình xử phạt 24 tháng tù về tội“ Tàng trứ trái phép chất ma túy.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 13/6/2020 đến ngày 15/6/2020 chuyển tạm giam. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình. (Bị cáo có mặt tại phiên tòa) .

Những người làm chứng: Anh Trương Đức Th, sinh năm 1975; Anh Vũ Trung H, sinh năm 1987; Bà Quách Thị L, sinh năm 1961.

Tại phiên tòa bà L có mặt, anh Th và anh H vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 07 giờ 15 phút ngày 13/6/2020, Nguyễn Văn Kh sử dụng điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu đỏ đen lắp sim 0985.331.613 gọi đến điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu vàng lắp sim 0364.001.743 của Quách Đại D rủ đi mua ma túy về sử dụng chung thì D đồng ý nênKhhẹn D chờ chân cầu N. Sau đó Nguyễn Văn Kh điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 35N1- 407.26 đi đến cửa hàng điện thoại di động Hà Uyên ở thôn Ph 1, xã Đ, huyện N bán chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu đỏ đen của mình cho chị Vũ Thị Thsinh năm 1983, trú tại thôn Phong Lai 1, xã Đ, huyện N được 1.000.000 đồng. Khi bán thì Kh đã lấy chiếc sim 0985.331.613 và chiếc thẻ nhớ trong điện thoại ra và bỏ vào túi quần rồi điều khiển xe mô tô đi đến chân cầu N thuộc địa phận thôn B, xã L, huyện N, khoảng lúc sau thì Quách Đại Dđiều khiển xe mô tô nhãn hiệu Lifan, biển kiểm soát 35H4- 2832 đi đến. Tại đâyKhđã đưa cho D số tiền 300.000 đồng và nói với D đi tìm mua ma túy về để 2 người sử dụng chung đồng thời hẹn khi nào mua được thì gặp nhau ở cổng trường cấp 2, xã L, huyện N. Quách Đại D cầm số tiền 300.000 đồng củaKhđi đến bến xe khách để tìm mua Heroine còn Kh điều khiển xe mô tô đi mua 02 bơm kim tiêm và 01 lọ nước cất rồi quay lại cổng trường cấp 2 Lđứng đợi. Khi Quách Đại D đi đến khu vực Bến xe khách N thuộc địa phận phố B, thị trấn N, huyện N thì gặp 01 người nam giới (D không biết tên, tuổi, địa chỉ) trông giống người nghiện đang đứng ở đó D liền hỏi “ Có không, để cho một gói 300.000 đồng” - Ý D hỏi mua Heroine của người này với giá 300.000 đồng. Người nam giới nói “Có, đưa tiền đây”, D lấy số tiền 300.000 đồng đưa cho người nam giới, người này cầm tiền rồi đưa cho D 01 gói Heroine được gói ngoài bằng giấy bạc mầu trắng. D mở ra kiểm tra xác định đúng là Heroine nên gói lại cầm ở tay trái rồi điều khiển xe đi đến gặpKhđang đứng chờ tại cổng trường cấp 2 L. Khi gặp nhau thì D nói với Kh đã mua được ma túy rồi. Sau đó D và Kh đã đi vào đường nội đồng thuộc địa phận xóm 4, xã L, huyện N để sử dụng ma túy. Khi D và Kh đang chuẩn bị sử dụng Heroine thì gặp tổ công tác Công an xã L phối hợp với Công an thị trấn N và Công an xã Ph đang tiến hành nhiệm vụ tuần tra đi đến. Do sợ bị phát hiện cất giấu trái phép Heroine trên người nên D đã ném từ trên tay xuống mặt đường 01 gói nhỏ được gói ngoài bằng giấy bạc mầu trắng xuống đất đã bị Tổ công tác phát hiện bắt quả tang còn Nguyễn Văn Kh lợi dụng sơ hở đã vứt chiếc sim 0985.331.613 của mình xuống đường gần vị trí bị phát hiện. Kiểm tra bên trong có chứa chất bột dạng cục màu trắng, Nguyễn Văn Kh, Quách Đại D đều khai nhận đó là gói Heroine của D và Khvừa mua về nhằm mục đích sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã thu giữ 01 gói nhỏ được gói ngoài bằng giấy bạc mầu trắng; thu giữ của D 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu vàng lắp sim 0364.001.743, 01 xe mô tô nhãn hiệu Lifan, biển kiểm soát 35H4- 2832; Thu giữ củaKhsố tiền 704.000 đồng, 02 bơm kim tiêm nhựa màu trắng loại 03ml chưa qua sử dụng, 01 lọ nước cất, 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda biển kiểm soát 35N1- 407.26.

Tiến hành cân xác định khối lượng chất bột dạng cục màu trắng chứa trong 01 gói nhỏ được gói ngoài bằng giấy bạc mầu trắng thu giữ của Nguyễn Văn Kh, Quách Đại D có khối lượng 0,18 gam ký hiệu M để gửi trưng cầu giám định về khối lượng và loại chất ma túy.

Tại bản kết luận giám định số 150/KLGĐ-PC09-MT ngày 15/6/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình kết luận:“Mẫu chất bột dạng cục mầu trắng ký hiệu M gửi giám định có khối lượng 0,1709 (Không phẩy một nghìn bảy trăm lẻ chín ) gam là ma túy, loại Heroine.

Hoàn lại đối tượng giám định gồm: 0,0956 (Không phẩy không nghìn chín trăm năm mươi sáu) gam còn lại trong mẫu M, toàn bộ vỏ gói bao gói niêm phong ban đầu, tất cả được niêm phong trong một phong bì ghi số 150/KLGĐ- PC09-MT theo quy định của pháp luật.

Tại bản cáo trạng số 49/CT-VKSNQ-HS ngày 04/8/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện N truy tố các bị cáo Nguyễn Văn Kh, Quách Đại D về tội:

Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo Nguyễn Văn Kh, Quách Đại D phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1, Điều 51 BLHS. Đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Kh từ 15 tháng đến 18 tháng tù, thời hạn tính từ ngày tạm giữ 13/6/2020; xử phạt bị cáo Quách Đại D từ 15 tháng đến 18 tháng tù, thời hạn tính từ ngày tạm giữ 13/6/2020. Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung với các bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị HĐXX áp dụng Điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 0,0956 (không phẩy không chín năm sáu) gam Heroine còn lại và toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong ban đầu, tất cả được niêm phong trong một phong bì ghi số 150/KLGĐ-PC09-MT; 01 phong bì niêm phong các vỏ gói ban đầu. 01 phong bì được niêm phong theo quy định của pháp luật bên trong là vỏ gói và phong bì niêm phong cũ; 01 phong bì được niêm phong bên trong là sim điện thoại số thuê bao 0985331613; 02 bơm kim tiêm nhựa màu trắng loại 3ml chưa qua sử dụng, 01 lọ nước cất NOVOCAIN 3% chưa qua sử dụng.

Tch thu sung công quỹ nhà nước 01 điện thoại di động OPPO màu đỏ đen thu của Nguyễn Văn Kh, 01 điện thoại di động Masstel thu của Quách Đại D.

Các Bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N.

Lời nói sau cùng của cả hai bị cáo rất ân hận về hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện N, Viện kiểm sát nhân dân huyện N,, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa hôm nay hoàn toàn phù hợp với lời khai của các bị cáo trong quá trình điều tra, người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, bản kết luận giám định số 150/KLGĐ-PC09-MT ngày 15/6/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình và các chứng cứ, tài liệu có liên quan khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Đã đủ cơ sở pháp lý khẳng định: Sáng ngày 13/6/2020 tại khu vực đường nội đồng thuộc địa phận xóm 4, xã L, huyện N các bị cáo Nguyễn Văn Kh và Quách Đại D đã có hành vi cất giấu trong người 0,1709 (Không phẩy một nghìn bảy trăm lẻ chín ) gam ma túy, loại Heroine nhằm mục đích sử dụng cho bản thân. Khi D vàKhđang chuẩn bị sử dụng Heroine thì gặp tổ công tác Công an xã L phối hợp với Công an thị trấn N và Công an xã Ph đang tiến hành nhiệm vụ tuần tra phát hiện bắt quả tang.

Như vậy, hành vi nêu trên của các bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Viện kiểm sát nhân dân huyện N vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố các bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Tuy nhiên, trước khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử cân nhắc đến tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà các bị cáo gây ra, nhân thân các bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, xét thấy:

Hành vi tàng trữ 0,1709 (Không phẩy một nghìn bảy trăm lẻ chín ) gam ma túy, loại Heroine nhằm mục đích sử dụng cho bản thân của các bị cáo là cố ý, tính chất tội phạm là nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho xã hội. Trực tiếp xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về việc quản lý các chất ma túy. Xét bản thân các bị cáo là người đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự nhận thức rõ hành vi tàng trữ Heroine của mình bị Nhà nước cấm. Các bị cáo nhận thức được nghiện ma túy là tệ nạn xã hội nguy hiểm mà cộng đồng đang ra sức lên án và loại trừ bởi ma túy ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của người sử dụng, ảnh hưởng đến kinh tế, sự phát triển nòi giống, phá hoại hạnh phúc gia đình và là con đường lây nhiễm HIV phổ biến nhất hiện nay. Đồng thời gây mất trật tự an toàn xã hội, làm gia tăng các tệ nạn xã hội như: Lừa đảo, trộm cắp…Nhận thức được hành vi bị pháp luật cấm và tác hại to lớn của ma túy như vậy nhưng các bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Về nhân thân: Các bị cáo có nhân thân xấu. Bị cáo Nguyễn Văn Kh đã bị đưa đi cai nghiện bắt buộc theo quyết định của UBND huyện N năm 2013 với thời hạn 24 tháng. Năm 2019 bị Công an huyện N xử phạt cảnh cáo về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Bị cáo Quách Đại Dcũng đã hai lần bị Tòa án xử phạt tù bằng các bản án: Ngày 22/5/2007 bị Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Bình xử phạt 24 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Ngày 08/5/2013 bị Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình xử phạt 24 tháng tù về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy“. Vì vậy, cần xử phạt các bị cáo mức án thật nghiêm khắc như vậy mới có tác dụng nâng cao hiệu quả công tác giáo dục, răn đe phòng ngừa tội phạm chung cũng như giúp các bị cáo có thời gian cải tạo rèn luyện mình trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội. Tuy nhiên xét trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi mình đã thực hiện đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự cần áp dụng khi quyết định hình phạt đối với bị cáo. Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Từ những nhận định trên xét thấy cần áp dụng loại hình phạt tù có thời hạn cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội của bị cáo.

Đây là vụ án đồng phạm mang tính chất giản đơn, các bị cáo đều là người thực hành. Đối với bị cáoKh là người rủ rê bị cáo D tham gia mua ma túy về để sử dụng, tuy nhiên bị cáo D cũng tích cực hưởng ứng và tự đi tìm mua ma túy về để cùng Kh sử dụng. Vì vậy hai bị cáo đều có vai trò như nhau. Tuy nhiên khi quyết định mức hình phạt thì bị cáo D phải chịu mức cao hơn bị cáo Kh vì bị cáo D có nhân thân xấu hơn bị cáo Kh.

Trong vụ án này có người đàn ông đã bán heroine cho D (theo lời khai của D) Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh nhưng không xác định được tên, tuổi, địa chỉ của người đã bán Heroine cho D nên không đủ căn cứ để giải quyết trong vụ án.

Về hình phạt bổ sung: Xét các bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy nhằm mục đích sử dụng không nhằm mục đích kiếm lời. Do vậy xét không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[3]. Về xử lý vật chứng:

- Đối với 0,0956 (không phẩy không chín năm sáu) gam Heroine còn lại và toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong ban đầu, tất cả được niêm phong trong một phong bì ghi số 150/KLGĐ-PC09-MT; 01 phong bì niêm phong các vỏ gói ban đầu. 01 phong bì được niêm phong theo quy định của pháp luật bên trong là vỏ gói và phong bì niêm phong cũ; 01 phong bì được niêm phong bên trong là sim điện thoại số thuê bao 0985331613; 02 bơm kim tiêm nhựa màu trắng loại 3ml chưa qua sử dụng, 01 lọ nước cất NOVOCAIN 3% chưa qua sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 điện thoại di động OPPO màu đỏ đen (củaKhdo chị Thanh giao nộp), 01 điện thoại di động Masstel thu của Quách Đại Dlà phương tiện dùng vào việc phạm tội, cần tịch thu sung công quỹ.

- Đối với số tiền 704.000 đồng và 01 xe mô tô biển kiểm soát 35N1- 407.26 thu của Nguyễn Văn Kh. Quá trình điều tra xác định là tài sản hợp pháp của Nguyễn Văn Kh không sử dụng vào việc phạm tội. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N đã trả lại cho Bà Quách Thị L (mẹ đẻ của Kh) theo ủy quyền của Nguyễn Văn Kh là phù hợp.

- Đối với 01 xe mô tô biển kiểm soát 35H4- 2832 thu của Quách Đại D quá trình điều tra xác định là tài sản hợp pháp của bà Trần Thị Th sinh năm 1958 ở thôn Lạc 2, xã L, huyện N (mẹ vợ của D) đã cho D mượn để sử dụng không biết Quách Đại D sử dụng xe mô tô đi mua ma túy về sử dụng. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N đã trả lại cho bà Th là phù hợp.

[4]. Về án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Văn Kh, Quách Đại D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Kh18 (Mười tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 13/6/2020.

Xử phạt bị cáo Quách Đại D 21 (Hai mươi mốt) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 13/6/2020.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 0,0956 (không phẩy không chín năm sáu) gam Heroine còn lại và toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong ban đầu, tất cả được niêm phong trong một phong bì ghi số 150/KLGĐ-PC09-MT; 01 phong bì niêm phong các vỏ gói ban đầu. 01 phong bì được niêm phong theo quy định của pháp luật bên trong là vỏ gói và phong bì niêm phong cũ; 01 phong bì được niêm phong bên trong là sim điện thoại số thuê bao 0985331613; 02 bơm kim tiêm nhựa màu trắng loại 3ml chưa qua sử dụng, 01 lọ nước cất NOVOCAIN 3% chưa qua sử dụng.

- Tịch thu sung công quỹ nhà nước 01 điện thoại di động OPPO màu đỏ đen thu của Nguyễn Văn Kh, 01 điện thoại di động Masstel thu của Quách Đại D.

(Chi tiết theo biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan CSĐT công an huyện N và Chi cục Thi hành án dân sự huyện N).

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Buộc các bị cáo Nguyễn Văn Kh, Quách Đại D mỗi bị cáo phải nộp là 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

4. Án xử công khai sơ thẩm các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

179
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 47/2020/HS-ST ngày 09/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:47/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nho Quan - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về