Bản án 47/2020/HSST ngày 05/05/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VIỆT TRÌ, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 47/2020/HSST NGÀY 05/05/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 05 tháng 5 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 34/2020/TLST-HS ngày 12 tháng 3 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 197/2020/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 4 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Xuân Q; sinh năm 1983 tại thành phố V, tỉnh Phú Thọ; Nơi cư trú: Khu 2, xã P, thành phố V, tỉnh Phú Thọ; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Xuân T1 và bà Phùng Thị Q1; có vợ là Cao Thị N và 02 con; tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 23/12/2019, chuyển tạm giam ngày 26/12/2019. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Phú Thọ, có mặt.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Nguyễn Văn 1 - sinh năm 1982, vắng mặt.

Trú tại: Khu 5, xã Kim Đức, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 5 giờ ngày 23/12/2019, tại khu 2, xã P, thành phố V, tỉnh Phú Thọ, tổ công tác của Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy – Công an thành phố Việt Trì lập biên bản vi phạm hành chính đối với Nguyễn Văn T – sinh năm 1982, trú tại khu 5, xã K, thành phố V đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ: 01 gói giấy mặt ngoài màu vàng, mặt trong màu trắng bên trong có chứa chất bột cục màu trắng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu trắng đen có số Imei 353872083763636 kèm sim số 0969380965. Ngay khi bị phát hiện, Nguyễn Văn T khai nhận gói giấy mặt ngoài màu vàng, mặt trong màu trắng bên trong có chứa chất bột cục màu trắng là ma túy Heroine của T mục đích để sử dụng cho bản thân.

Tổ công tác đã lập biên bản vi phạm hành chính đối với Nguyễn Văn T và tiến hành niêm phong vật chứng theo quy định.

Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Việt Trì, đã ra quyết định trưng cầu giám định số chất bột cục màu trắng thu giữ của Nguyễn Văn T. Tại bản kết luận giám định số 51/KLGĐ ngày 26/12/2019, của phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Phú Thọ kết luận:

Mẫu chất bột cục màu trắng trong bì niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 0,035gam, loại: Heroine” * Heroine là chất ma túy nằm trong Danh mục I, số thứ tự: 09, Nghị định 73 ngày 15/5/2018 của Chính Phủ. Hoàn lại đối tượng giám định 0,017 gam chất bột, cục, màu trắng cùng toàn bộ bao gói gửi đến giám định.

Về nguồn gốc số ma túy thu giữ khi bị bắt, Nguyễn Văn T khai: T mua của Nguyễn Xuân Q – sinh năm 1983, trú tại khu 2, xã P, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Ngoài ra, ngày 13/12/2019, T còn mua 01 gói ma túy của Q với giá 300.000 đồng và đã sử dụng hết cho bản thân.

Căn cứ lời khai của T, Cơ quan điều tra đã tiến hành Lệnh khám xét khẩn cấp nơi ở của Q. Quá trình khám xét thu giữ của Q: 01 điện thoại di động Xphone, imei 358735067087741 kèm sim số 0356408302; 02 mảnh giấy một mặt màu vàng một mặt màu trắng và 01 lưỡi dao lam hiệu Croma đã cũ. Cơ quan điều tra đã thi hành lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Q.

Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã làm rõ: Trong các ngày 13/12/2019 và 22/12/2019 tại khu 2, xã P, thành phố V, Nguyễn Xuân Q đã hai lần bán trái phép chất ma túy heroine cho Nguyễn Văn T, cụ thể như sau:

Lần 1: Khoảng hơn 10 giờ ngày 13/12/2019, Q đang ở nhà tại khu 2, xã P, thành phố V thì T gọi điện từ số 0969380965 của T đến số điện thoại 0356408302 của Q hỏi mua 300.000 đồng tiền ma túy heroine. Q đồng ý bán và bảo T đến nhà Q. Sau đó, T đi nhờ xe của một người qua đường (T không biết tên, tuổi, địa chỉ) đến nhà gặp Q và đưa cho Q 300.000 đồng. Q cầm tiền và đưa lại cho T 01 gói ma túy heroine, đặc điểm là gói giấy, mặt ngoài màu vàng, mặt trong màu trắng, bên trong chứa chất bột, cục màu trắng. T cầm gói ma túy về nhà và sử dụng hết cho bản thân. Số tiền bán ma túy cho T, Q đã chi tiêu cá nhân hết.

Lần 2: Khoảng hơn 10 giờ ngày 22/12/2019, Q đang ở nhà thì T gọi điện từ số 0969380965 của T đến số điện thoại 0356408302 của Q hỏi mua ma túy heroine. Q đồng ý bán và bảo T đến nhà Q. Sau đó, T đi nhờ xe của một người qua đường (T không biết tên, tuổi, địa chỉ) đến nhà gặp Q và đưa cho Q 500.000 đồng. Q cầm tiền T đưa. Do không có sẵn ma túy nên Q bảo T về, khi nào có ma túy Q sẽ gọi cho T. Khoảng 14 giờ cùng ngày, Q gọi điện thoại cho T báo đã có ma túy và hẹn T đến lấy 01 gói ma túy heroine, đặc điểm là gói giấy, mặt ngoài màu vàng, mặt trong màu trắng, bên trong chứa chất bột, cục màu trắng, Q cất giấu trong bao thuốc lá, đặt tại cột điện đầu nhà Q. Một lúc sau, T đến lấy ma túy tại nơi Q cất giấu như trên. T cầm gói ma túy về nhà và tách lấy một phần sử dụng cho bản thân. Phần còn lại, T gói lại như cũ và cất giấu trong người. Đến khoảng 5 giờ ngày 23/12/2019, T mang gói ma túy đi đến khu vực bờ đê thuộc xã P, thành phố V thì bị tổ công tác phát hiện và lập biên bản vi phạm hành chính như đã nêu trên.

Về nguồn gốc ma túy bán cho T, Nguyễn Xuân Q khai nhận:

Khong 08 giờ 30 phút ngày 13/12/2019, Q đi nhờ xe của một người qua đường đến khu vực xã B, huyện X , tỉnh Vĩnh Phúc để tìm mua ma túy. Tại đây, Q gặp một người phụ nữ (Q không biết tên, tuổi, địa chỉ). Q hỏi mua của người này được 01 gói ma túy Heroine, gói bằng giấy mặt ngoài màu vàng mặt trong màu trắng, bên trong có chất bột cục, màu trắng, với giá 300.000đ. Sau khi mua được ma túy, Q mang về nhà tách lấy một phần sử dụng. Phần ma túy còn lại Q gói lại như cũ cất giấu trong người, đến khoảng hơn 10 giờ ngày 13/12/2019, Q đã bán cho T như nêu trên.

Về gói ma túy bán cho T lần 2: Vào khoảng hơn 10 giờ ngày 22/12/2019, sau khi nhận 500.000 đồng tiền mua ma túy T đưa, Q đi nhờ xe của một người qua đường đến khu vực xã B, huyện X, tỉnh Vĩnh Phúc để tìm mua ma túy. Tại đây Q gặp người phụ nữ như trên, Q hỏi mua của người này được 01 gói ma túy Heroine, gói bằng giấy mặt ngoài màu vàng mặt trong màu trắng, bên trong có chất bột cục, màu trắng, với giá 500.000đ. Sau khi mua được ma túy, Q mang về nhà tách lấy một phần sử dụng. Phần ma túy còn lại Q gói lại như cũ và đã bán cho T như nêu trên.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng đã truy tố.

Bản Cáo trạng số: 47/CT-VKS-VT ngày 11 tháng 3 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ truy tố bị cáo Nguyễn Xuân Q về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Xuân Q phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” áp dụng điểm b, khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51;

Điều 38; điểm a, b, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự ; điểm a, b,c khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân Q từ: 08 (tám) đến 08 (tám) 06 (sáu) tháng tù, Thời hạn tù tính từ ngày 23/12/2019 Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong có số: 51/KLGĐ của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ hoàn trả bên trong có 0,017 gam chất bột, cục màu trắng là mẫu vật còn lại sau giám định và 02 mảnh giấy một mặt màu vàng một mặt màu trắng và 01 lưỡi dao lam hiệu Croma, 01 sim điện thoại số 0356408302 đã thu giữ của bị cáo Q.

- Tịch thu sung quỹ nhà nước của bị cáo Q 01 điện thoại di động nhãn hiệu Xphone, số imei 358735067087741 - Trả lại cho Nguyễn Văn T 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu trắng đen, có số Imei 353872083763636.

- Buộc bị cáo Nguyễn Xuân Q nộp sung quỹ nhà nước 800.000 đồng.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Trước khi Hội đồng xét xử vào phòng nghị án, bị cáo nói lời nói sau cùng: Bị cáo nhận thức hành vi của mình là sai, bị cáo ăn năn hối cải, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

nh vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an thành phố Việt Trì, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Việt Trì, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Các quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng đã được tống đạt cho bị cáo và những người tham gia tố tụng khác đúng thời hạn do pháp luật quy định nên các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt. Xét thấy quá trình điều tra, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án đã có lời khai đầy đủ, đã trình bày ý kiến của mình về các vấn đề có liên quan trong vụ án nên sự vắng mặt tại phiên tòa của Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án. Do đó, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bị hại là không vi phạm các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Về nội dung:

Đánh giá các chứng cứ buộc tội đối với bị cáo: Tại phiên toà hôm nay, bị cáo Nguyễn Xuân Q đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu, thừa nhận nội dung cáo trạng truy tố là đúng.

Trong hai ngày 13/12/2019 và ngày 22/12/2019 tại nhà ở của mình ở khu 2, xã P, thành phố V, tỉnh Phú Thọ, Nguyễn Xuân Q đã hai lần bán trái phép chất ma túy cho Nguyễn Văn T thu được số tiền 800.000 đồng, cụ thể: Khoảng 10 giờ ngày 13/12/2019, Nguyễn Xuân Q đã bán 01 ma túy cho Nguyễn Văn T, thu được số tiền 300.000 đồng, số ma túy này Nguyễn Văn T đã sử dụng hết. Lần thứ hai, khoảng 14 giờ ngày 22/12/2019, Nguyễn Xuân Q bán cho Nguyễn Văn T 01 gói ma túy, thu được số tiền 500.000 đồng, số ma túy này Nguyễn Văn T đã sử dụng một phần, còn 0,035 gam ma túy Heroine T cất trong người thì bị phát hiện như đã nêu trên. Do vậy Nguyễn Xuân Q phải chịu trách nhiệm về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự, nội dung điều luật quy định:

Tại Điều 251 Bộ luật Hình sự quy định:

“1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

a) Có tổ chức;

b) Phạm tội 02 lần trở lên...”.

Về tính chất, mức độ hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo:

nh vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước, gây hậu quả nghiêm trọng, ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự và an toàn xã hội tại địa phương.

Bị cáo có năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp. Bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện nên bị cáo phải chịu hậu quả về hành vi phạm tội của mình.

[4] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự áp dụng cho bị cáo: Trong giai đoạn điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được áp dụng cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào [5] Về hình phạt:

- Hình phạt chính: Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo. Xét thấy, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Do đó, cần thiết phải xử phạt bị cáo nghiêm khắc bằng hình phạt tù, cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội do bị cáo gây ra mới có tác dụng cải tạo giáo dục bị cáo và đấu tranh phòng ngừa tội phạm. Tuy nhiên khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để giảm nhẹ một phần mức hình phạt tù cho bị cáo thể hiện chính sách nhân đạo của pháp luật đối với người phạm tội.

Hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 251 của Bộ luật hình sự thì bị cáo có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay xác định bị cáo không có tài sản gì nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng của vụ án:

- Ma túy là vât nhà nước cấm lưu hành, vì vậy cần tịch thu tiêu hủy: Tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong có số: 51/KLGĐ của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ hoàn trả bên trong có 0,017 gam chất bột, cục màu trắng là mẫu vật còn lại sau giám định.

- Đối với 01 sim điện thoại số 0356408302 trong chiếc điện thoại thu giữ của bị cáo Q và 02 mảnh giấy một mặt màu vàng một mặt màu trắng và 01 lưỡi dao lam hiệu Croma đã thu giữ của bị cáo Q, 01 sim điện thoại số 0969380965 trong chiếc điện thoại đã thu giữ của T là những vật không còn giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy.

- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Xphone, số imei 358735067087741 của bị cáo Q.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu trắng đen, có số Imei 3538.7208.3763.636 của Nguyễn Văn T dùng để T liên lạc với bị cáo Q để mua ma túy được xác định là phương tiện dùng vào việc phạm tội của Q nên cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

- Buộc bị cáo Nguyễn Xuân Q nộp sung quỹ nhà nước 800.000 đồng là tiền bán ma túy cho Nguyễn Văn T.

[7] Về nguồn gốc số Ma túy: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo khai nhận mua ma túy của một người phụ nữ không biết tên ở khu vực xã Bồ Sao, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc. Do bị cáo không biết rõ họ tên, địa chỉ cụ thể của người phị nữ đó ở đâu nên Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thành phố Việt Trì chưa đủ căn cứ để điều tra là phù hợp.

Đối với Nguyễn Văn T là người mua ma túy của Q 02 lần để sử dụng cho bản thân, Công an thành phố Việt Trì đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của Nguyễn Văn T là phù hợp.

[8] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Xuân Q phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 251; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm a,b, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, b, c khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1.Tuyên bố bị cáo Nguyễn Xuân Q phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân Q 08 (tám) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 23/12/2019.

Miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Q 2. Về vật chứng vụ án:

-Tịch thu tiêu hủy:

+ 01 bì niêm phong có số: 51/KLGĐ của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ hoàn trả bên trong có 0,017 gam chất bột, cục màu trắng là mẫu vật còn lại sau giám định. 01 sim điện thoại số 0356408302 trong chiếc điện thoại thu giữ của bị cáo Q và 02 mảnh giấy một mặt màu vàng một mặt màu trắng và 01 lưỡi dao lam hiệu Croma đã thu giữ của bị cáo Q, 01 sim điện thoại số 0969380965 trong chiếc điện thoại đã thu giữ của Nguyễn Văn T.

- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Xphone, số imei 358735067087741 của bị cáo Q và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu trắng đen, có số Imei 3538.7208.3763.636 của Nguyễn Văn T.

- Buộc bị cáo Nguyễn Xuân Q nộp sung quỹ nhà nước 800.000đ (tám trăm nghìn đồng).

3. Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Xuân Q phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

159
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 47/2020/HSST ngày 05/05/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:47/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Việt Trì - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về