TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN NGÔ QUYỀN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 47/2020/HNGĐ-ST NGÀY 08/12/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 08 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 369/2020/TLST- HNGĐ ngày 08 tháng 10 năm 2020 về ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 64/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 19 tháng 11 năm 2020, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Lê Thị Tr; nơi cư tr : Số 121 đường L, phường L, quận N, thành phố H; có mặt.
- Bị đơn: Anh Phạm Anh T; nơi cư tr : Số 121 đường L, phường L, quận N, thành phố H; vắng mặt (có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt .
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Tại đơn khởi kiện đề ngày 21/9/2020, bản tự khai nguyên đơn chị Lê Thị Tr trình bày:
Năm 2014, chị và anh Phạm Anh T kết hôn trên cở sở tự nguyện, gia đình hai bên có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán Việt Nam, có đăng ký kết hôn ngày 25/9/2014 tại Ủy ban nhân dân phường Lạch Tray, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng. Quá trình chung sống, vợ chồng hòa thuận đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, lối sống, tính cách không hợp và chị không tin tưởng anh T trong tình cảm. Từ đó tình cảm vợ chồng ngày càng rạn nứt. Mâu thuẫn đã được hai bên gia đình phân tích hòa giải nhưng không có kết quả, và từ đầu năm 2019 đến nay, chị và anh T đã sống ly thân không còn quan hệ về tình cảm, tuy nhiên anh T vẫn có trách nhiệm với các con. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Phạm Anh T.
Về việc nuôi con: Chị và anh Phạm Anh T có hai con chung là Phạm Lê Huyền M, sinh ngày 24/4/2015 và Phạm Lê Ph c K, sinh ngày 14/3/2019. Khi ly hôn chị đề nghị được nuôi cả hai con. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về việc chia tài sản: Chị Lê Thị Tr và anh Phạm Anh T không có, nên không yêu cầu Toà án giải quyết.
* Tại bản tự khai đề ngày 26/10/2020, bị đơn anh Phạm Anh T trình bày:
Anh Phạm Anh T xác nhận năm 2014, anh và chị Lê Thị Tr kết hôn trên cở sở tự nguyện, gia đình hai bên có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán Việt Nam, có đăng ký kết hôn ngày 25/9/2014 tại Ủy ban nhân dân phường Lạch Tray, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng. Quá trình chung sống, vợ chồng hòa thuận đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do hai bên bất đồng quan điểm lối sống. Từ cuối năm 2019 đến nay, anh và chị Tr đã sống ly thân không còn quan hệ tình cảm và kinh tế. Mâu thuẫn đã được hai bên gia đình phân tích hòa giải nhưng không có kết quả. Nay anh xác định tình cảm vợ chồng không còn, chị Tr có đơn xin ly hôn anh đồng ý ly hôn.
Về việc nuôi con: Anh xác nhận giữa anh và chị Lê Thị Tr có hai con chung là Phạm Lê Huyền M, sinh ngày 24/4/2015 và Phạm Lê Ph c K, sinh ngày 14/3/2019. Khi ly hôn anh đồng ý giao cả hai con cho chị Tr trực tiếp nuôi. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con anh chị tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về việc chia tài sản: Anh Phạm Anh T và chị Lê Thị Tr không có, nên không yêu cầu Toà án giải quyết.
Quá trình giải quyết vụ án bị đơn anh Phạm Anh T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản của Tòa án gồm Thông báo về việc thụ lý vụ án, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng anh Phạm Anh T vắng mặt. Tuy nhiên tại hồ sơ đã có bản tự khai, đơn đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải và tại phiên tòa.
Tòa án đã thu thập chứng cứ tại địa phương và hai bên gia đình nguyên đơn, bị đơn đều thể hiện: Chị Lê Thị Tr và anh Phạm Anh T chung sống hạnh ph c đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do hai bên bất đồng quan điểm và từ năm 2019 cho đến nay chị Tr và anh T đã sống ly thân, không còn quan hệ tình cảm và kinh tế; về con chung: Có hai con chung là Phạm Lê Huyền M, sinh ngày 24/4/2015 và Phạm Lê Ph c K, sinh ngày 14/3/2019. Khi ly hôn Tòa án nên giao cả hai con cho chị Tr nuôi; về tài sản chung: Địa phương không nắm được nên không có ý kiến.
* Tại phiên tòa, nguyên đơn chị Lê Thị Tr vẫn giữ nguyên quan điểm như đơn khởi kiện và đề nghị Toà án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Phạm Anh T; về con chung: Chị và anh Phạm Anh T có hai con chung là Phạm Lê Huyền M, sinh ngày 24/4/2015 và Phạm Lê Ph c K, sinh ngày 14/3/2019. Khi ly hôn chị đề nghị được nuôi cả hai con Phạm Lê Huyền M và Phạm Lê Ph c K. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con anh chị tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết; về tài sản: Chị Lê Thị Tr và anh Phạm Anh T không có, nên không yêu cầu Toà án giải quyết.
* Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng phát biểu quan điểm:
Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết từ giai đoạn thụ lý đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử đã đảm bảo đ ng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn tuân thủ đ ng quy định của pháp luật; nguyên đơn chị Lê Thị Tr và bị đơn anh Phạm Anh T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ và đã thực hiện đ ng các quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Căn cứ các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng có quan điểm: Mâu thuẫn của chị Lê Thị Tr và anh Phạm Anh T đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; căn cứ Điều 51, khoản 1 Điều 56 và các điều 58, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị định số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thị Tr, chị Lê Thị Tr được ly hôn anh Phạm Anh T; về việc nuôi con: Chị Lê Thị Tr và anh Phạm Anh T có hai con chung là Phạm Lê Huyền M, sinh ngày 24/4/2015 và Phạm Lê Phúc K, sinh ngày 14/3/2019. Giao hai con Phạm Lê Huyền M và Phạm Lê Ph c K cho chị Tr trực tiếp nuôi cho đến khi mỗi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chị Tr và anh T không yêu cầu Tòa án giải quyết; về việc chia tài sản: Chị Lê Thị Tr và anh Phạm Anh T không có, nên không yêu cầu Toà án giải quyết; về án phí: Chị Lê Thị Tr phải nộp án phí theo quy định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
- Về tố tụng dân sự:
+ Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết:
[1] Đây là quan hệ pháp luật về ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn được quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự, bị đơn anh Phạm Anh T cư tr tại địa bàn quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.
+ Về sự vắng mặt của bị đơn:
[2] Bị đơn anh Phạm Anh T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt và đã có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét xử vắng anh Phạm Anh T theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Về nội dung:
[3] Về quan hệ hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Lê Thị Tr và anh Phạm Anh T được xác lập từ ngày 25 tháng 9 năm 2014, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Lạch Tray, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng. Đây là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại khoản 1 Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình.
[4] Quá trình kết hôn chị Tr và anh T chung sống hạnh ph c đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do tính cách không hợp, bất đồng quan điểm, lối sống, từ đó vợ tình cảm vợ chồng ngày càng rạn nứt. Trầm trọng nhất từ đầu năm 2019 cho đến nay hai người đã sống ly thân không còn quan hệ về tình cảm cũng như kinh tế. Nay chị Tr và anh T xác định tình cảm vợ chồng không còn. Xét mâu thuẫn giữa chị Lê Thị Tr và anh Phạm Anh T đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy, cần áp dụng khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Lê Thị Tr và anh Phạm Anh T.
[5] Về việc nuôi con: Chị Lê Thị Tr và anh Phạm Anh T có hai con chung là Phạm Lê Huyền M, sinh ngày 24/4/2015 và Phạm Lê Ph c K, sinh ngày 14/3/2019. Hội đồng xét xử xét: Để đảm bảo sự ổn định về mặt tâm lý, sự phát triển về mọi mặt cho các con và theo thỏa thuận của chị Tr và anh T nên giao cả hai con Phạm Lê Huyền M và Phạm Lê Ph c K cho chị Tr trực tiếp nuôi cho đến khi mỗi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chị Tr và anh T không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[6] Về việc chia tài sản: Chị Lê Thị Tr và anh Phạm Anh T không có, nên không yêu cầu Toà án giải quyết.
- Về án phí:
[7] Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, chị Lê Thị Tr phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
- Về quyền kháng cáo:
[8] Chị Lê Thị Tr và anh Phạm Anh T được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 207, điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 228 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, các điều 58, 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình;
Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị của chị Lê Thị Tr.
1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị Tr được ly hôn anh Phạm Anh T.
2. Về việc nuôi con: Giao hai con chung là Phạm Lê Huyền M, sinh ngày 24/4/2015 và Phạm Lê Ph c K, sinh ngày 14/3/2019 cho chị Lê Thị Tr trực tiếp nuôi cho đến khi mỗi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chị Lê Thị Tr và anh Phạm Anh T không yêu cầu, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
3. Về việc chia tài sản: Chị Lê Thị Tr và anh Phạm Anh T không có, nên không yêu cầu Toà án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
4. Về án phí: Chị Lê Thị Tr phải nộp 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0006672 ngày 08 tháng 10 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng. Chị Lê Thị Tr đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo đối với bản án:
Chị Lê Thị Tr được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Anh Phạm Anh T vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
6. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 47/2020/HNGĐ-ST ngày 08/12/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con
Số hiệu: | 47/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Ngô Quyền - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 08/12/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về