TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐĂK LĂK
BẢN ÁN 47/2019/HSPT NGÀY 29/01/2019 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 29 tháng 01 năm 2019 tại trụ sở Tòa án Nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 10/2019/TLPT-HS ngày 03/01/2019 đối với bị cáo Bùi Thế Q về tội “Cố ý gây thương tích”, do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 62/2018/HSST ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk.
* Bị cáo có kháng cáo:
Họ và tên: Bùi Thế Q; sinh năm: 1988 tại tỉnh Đắk Lắk; nơi cư trú: Thôn TH, xã EH, huyện KN, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 05/12; dân tộc: Kinh; con ông (Không rõ) và con bà Nguyễn Thị X. Vợ là Hà Thị K; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 26/02/2018 đến ngày 26/6/2018 được gia đình bảo lãnh tại ngoại. Đến ngày 23/11/2018 bắt tạm giam, (có mặt tại phiên tòa).
* Người bị hại: Anh A Niê; địa chỉ: Buôn W, xã EH, huyện KN, tỉnh Đắk Lắk. Vắng mặt.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Văn S; địa chỉ: Thôn 4, xã EH, huyện KN, tỉnh Đắk Lắk. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Anh Nguyễn Xuân D hợp đồng thầu hồ nuôi cá thuộc thôn TH, xã EH, huyện KN với thời hạn 05 năm. Ngày 15/10/2017, anh D thỏa thuận thuê Bùi Thế Q trông coi hồ không cho ai câu cá trong thời gian 20 ngày và đưa trước cho Q 500.000 đồng tiền đổ xăng xe đi lại.
Khoảng 15 giờ ngày 15/10/2017, Q đi bộ quanh hồ đế kiểm tra thì phát hiện có hai nhóm thanh niên đang uống rượu và câu cá. Q tiến lại gần nói: “Ai cho mấy người câu cá?”, thấy nhóm này vẫn tiếp tục câu cá thì Q gọi điện báo cho anh D. Khoảng 20 phút sau, anh D điều khiến xe mô tô đến thu cần câu nên nhóm thanh niên này bỏ đi nơi khác. Sau đó, anh D và Q đi đến khu vực bờ hồ gần hoa viên thì thấy nhóm thanh niên gồm: A Niê, B Niê, C Mlô và E Niê cùng trú tại Buôn W, xã EH đang ngồi uống rượu, còn M Niê đang câu cá. Thấy vậy, anh D thu cần câu cá rồi bẻ gãy. B Niê đi lại gây sự, đòi đánh nhau với Q và anh D nên giữa Q và B Niê xảy ra cãi nhau qua lại, giằng co xô xát nhau một lúc rồi cùng ngã xuống hồ. Sau khi lên bờ hồ, Q gọi điện thoại cho bạn là Nguyễn Văn S nói: “Tao đang bị đánh, vào hồ giúp tao”. Khoảng 05 phút sau, S điều khiển xe ô tô tải đến dừng ở khu vực ngã ba Công ty cao su, lúc này Q nhớ có súng để trên xe ô tô nên Q chạy lại mở cửa ca bin bên phụ xe, leo lên lấy súng tự chế để ở phía sau ghế phụ và lấy 01 viên đạn chì để ở hộp đầu xe ô tô (súng và đạn do Q mua trước đó và để trên xe ô tô), còn S điều khiển xe bỏ đi. Sau khi lấy được súng, Q chạy đến khu vực đường đất đi xuống hồ giơ nòng súng hướng lên trời kéo cò bắn hơi một phát, rồi chạy ra khu vực ngã ba Công ty cao su tiếp tục bắn hơi một phát nữa thì nhóm A Niê bỏ chạy về buôn W, xã EH. Trên đường chạy về, nhóm A Niê gặp một số thanh niên khác trú cùng buôn nên rủ nhau quay lại đánh Q.
Thấy mọi người đã đi hết, Q nạp đạn vào súng định bắn chim thì anh D nói đi về nên Q không đi bắn nữa. Lúc này, anh D điều khiển xe mô tô chở Q ngồi sau, tay cầm súng hơi đi vòng quanh hồ cá để kiếm tra. Khi đi được khoảng 15m, thấy nhóm Y D tay cầm gậy đi ngược chiều tiến gần chặn xe của anh D lại nên Q cầm súng nhảy xuống xe bỏ chạy thì bị A Niê, C Mlô và 06 người nữa đuổi đánh. Khi đang chạy qua đường đất rẫy cà phê, Q nhìn lại thấy nhóm A Niê đuổi gần kịp còn khoảng 7m nên Q cầm súng quay người lại chạy lùi, giơ súng lên ngang ngực, hướng nòng súng chếch xuống dưới bắn một phát trúng vào đùi trái của A Niê gây thương tích, rồi quay đầu chạy. Thấy nhóm A Niê vẫn đuổi theo, Q quay người lại bắn một phát hơi không có đạn rồi tiếp tục bỏ chạy vào lô cà phê để lẩn trốn. Anh A Niê bị thương, được mọi người đưa đi bệnh viện.
Tại Biên bản thực nghiệm điều tra xác định: Vị trí Bùi Thế Q đứng cách mép đường liên xã theo hướng bắc 2,3m, cách đường mòn rẫy ông T về hướng đông nam 7,9m; Vị trí của A Niê cách vị trí của Bùi Thế Q 7,2m về hướng tây; Tư thế cầm súng của Bùi Thế Q: Tay phải cầm dưới bệ đỡ súng, tay trái tư thế bóp cò, súng đưa lên ngang ngực, nòng súng hướng về phía trước (hướng tây); Báng súng cách mặt đất l,46m, nòng súng cách l,25m; Đo chiều cao của Bùi Thế Q khi thực hiện hành vi cầm súng thấy: Chiều cao l,68m, vai cách mặt đất l,41m; Tư thế của A Niê khi bị bắn: Đứng đối diện với Bùi Thế Q; Đo chiều cao của A Niê là l,69m; Đo vết thương trên đùi trái đến mặt đất 0,72m.
Tại Bản kết luận pháp y thương tích số 1251/PY-TgT ngày 19/10/2017 của Trung tâm pháp y thuộc Sở y tế tỉnh Đắk Lắk kết luận: Anh A Niê bị vết thương đùi, tổn thương cơ, đi lại khó khăn bên đùi trái. Vật tác động: Hỏa khí. Tỷ lệ thương tích 16%.
Tại bản kết luận pháp y bổ sung số 467/PY-TgT ngày 02/4/2018, của Trung tâm pháp y thuộc Sở y tế tỉnh Đắk Lắk kết luận: Thương tích của nạn nhân là do tác động của ngoại lực, tác nhân là hỏa khí. Đạn đạo từ trước ra sau và hơi chếch từ dưới lên trên. Tầm bắn khoảng hơn 05m.
Tại bản Kết luận giám định số 3576/C54B ngày 20/12/2017 của Phân viện Khoa học hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh kết luận: 01 khẩu súng dài 72cm gửi giám định là súng hơi tự chế có đường kính nòng 5,5mm. Sử dụng khẩu súng nói trên bắn với đạn mũi dù đường kính 5,5mm vào cơ thể người hoặc động vật có thể gây sát thương. Hiện tại, hơi trong bình nén không còn đủ nên súng không bắn được đạn ra khỏi nòng. Khẩu súng nêu trên nằm trong danh mục súng săn; 01 mẫu kim loại màu xám ghi thu từ đùi của A Niê và 01 mẫu kim loại màu xám ghi thu từ Bùi Thế Q gửi giám định là đạn mũi dù cỡ 5,5mm. Màu kim loại màu xám ghi thu từ đùi của A Niê có đặc điểm không đủ cơ sở xác định có phải do khẩu súng nêu trên bắn ra hay không.
Tại bản Kết luận giám định số 1302/C54B ngày 27/3/2018, của Phân viện Khoa học hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh kết luận: 01 mẫu kim loại màu xám ghi thu từ đùi của A Niê và 01 mẫu kim loại màu xám ghi thu từ Bùi Thế Q là đạn mũi dù cỡ 5,5mm. Đạn mũi dù cỡ 5,5mm sử dụng để bắn được cho súng hơi tự chế dài 72cm, có đường kính trong nòng 5,5mm ghi thu được từ Bùi Thế Q gửi giám định.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 62/2018/HSST ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện Krông Năng, đã quyết định:
Tuyên bố bị cáo Bùi Thế Q phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
Áp dụng khoản 2 Điều 104; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 (Áp dụng Nghị quyết số 41 ngày 20/6/2017 của Quốc hội; khoản 3 Điều 7; điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015).
Xử phạt: Bùi Thế Q 02 năm 06 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam, ngày 23/11/2018 (được khấu trừ thời gian đã tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/02/2018 đến ngày 26/6/2018).
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo cho bị cáo và các đương sự theo quy định của pháp luật.
Ngày 03/12/2018 bị cáo có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo vẫn giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo.
Kết quả xét hỏi tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung vụ án đã được tóm tắt nêu trên.
Đại điện Viện kiểm sát đã phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị Bùi Thế Q và khẳng định: Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị Bùi Thế Q về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại khoản 2 Điều 104 điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 (Áp dụng Nghị quyết số 41 ngày 20/6/2017 của Quốc hội; khoản 3 Điều 7; điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015) là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tuy nhiên, cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 02 năm 06 tháng tù là có phần nghiêm khắc so với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra. Vì vậy, đề nghị HĐXX áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 357 BLTTHS chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm xử phạt bị cáo 2 năm 3 tháng tù.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị và không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hiệu kháng cáo, kháng nghị.
Bị cáo không tranh luận, bào chữa gì chỉ đề nghị HĐXX giảm hình phạt cho bị cáo vì hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Lời khai của bị cáo tại phiên toà phúc thẩm là phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với các tài liệu chứng cứ đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở để kết luận: Do ý thức coi thường pháp luật, xuất phát từ mâu thuẫn với anh A Niê và một số thanh niên buôn W, xã EH, huyện KN, trong khi đang trông coi hồ cá và bị những người này đuổi đánh mà vào chiều ngày 15/10/2017 bị cáo đã dùng khẩu súng hơi tự chế bắn một phát về phía những người đang đuổi đánh mình, trúng vào đùi trái chân anh A Niê làm anh A Niê bị thương tổn hại 16% sức khỏe. Do vậy, cấp sơ thẩm đã xét xử bị Bùi Thế Q về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm khoản 2 Điều 104 BLHS năm 1999 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo thấy rằng: Mức hình phạt 02 năm 06 tháng tù mà cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội do bị cáo gây ra. Cấp sơ thẩm đã áp dụng đúng, đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo khi quyết định mức hình phạt đối với bị cáo. Tại cấp phúc thẩm, bị cáo không cung cấp được tình tiết giảm nhẹ nào mới, nên HĐXX phúc thẩm không chấp nhận đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo.
[3] Về án phí hình sự phúc thẩm: Do không được chấp nhận kháng cáo nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
[1] Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự.
Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Bùi Thế Q - Giữ nguyên bản án sơ thẩm số: 62/2018/HSST ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện Krông Năng về hình phạt.
[2] Điều luật áp dụng và mức hình phạt:
Áp dụng khoản 2 Điều 104; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 (Áp dụng Nghị quyết số 41 ngày 20/6/2017 của Quốc hội; khoản 3 Điều 7; điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015).
Xử phạt: Bị cáo Bùi Thế Q 02 năm 06 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam, ngày 23/11/2018 (Bị cáo được khấu trừ thời gian đã tạm giữ, tạm giam trước từ ngày 26/02/2018 đến ngày 26/6/2018).
[3] Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Bùi Thế Q phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm.
[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 47/2019/HSPT ngày 29/01/2019 về tội cố ý gây thương tích
Số hiệu: | 47/2019/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đăk Nông |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/01/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về