TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN THÀNH - TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 47/2019/HNGĐ-ST NGÀY 28/06/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Ngày 28 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Yên Thành xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 214/2019/TLST-HNGĐ ngày 14 tháng 5 năm 2019 về "Tranh chấp hôn nhân và gia đình" theo Quyết định hoãn phiên tòa số 85/2019/QĐST-HPT ngày 14 tháng 6 năm 2019 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Trần Thị L – sinh năm 1991
Địa chỉ cư trú: xóm 1, xã B, huyện Y, tỉnh N.(có mặt)
2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn K – sinh năm 1992.
Địa chỉ cư trú: xóm 1, xã B, huyện Y, tỉnh N.(vắng mặt lần 2)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện xin ly hôn đề ngày 13/5/2019 và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Trần Thị L trình bày: chị và anh Nguyễn Văn K kết hôn vào ngày 20/11/2015, hôn nhân hoàn toàn tự nguyện và có đăng ký tại UBND xã L, huyện Y, tỉnh N. Sau ngày kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, ngày một căng thẳng và trầm trọng. Nguyên nhân chủ yếu: do tính cách không hòa hợp nhau, bất đồng quan điểm sống, thường xuyên cãi vã, xúc phạm lẫn nhau. Bản thân chị cũng như hai bên nội ngoại khuyên bàn hòa giải nhưng không thành. Hiện tại vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 5/2018 cho đến nay, không còn qua lại, quan hệ gì với nhau nữa. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng thực sự không còn, không có khả năng để hàn gắn đoàn tụ được nữa, nên đề nghị Toà án giải quyết cho chị được ly hôn anh K.
Về con chung: Vợ chồng có 2 con chung là: Nguyễn Văn Đức T – sinh ngày 30/9/2016 và Nguyễn Trúc L– sinh ngày 28/01/2019. Ly hôn chị có nguyện vọng trực tiếp nuôi cả 2 con chung đến lúc trưởng thành, không yêu cầu anh K phải cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về phía bị đơn, trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập và tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh Nguyễn Văn K theo đúng quy định của pháp luật, nhưng anh K vẫn vắng mặt. Vì vậy, Tòa án không thể tiến hành làm việc được với anh K.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
Đây là vụ án tranh chấp về hôn nhân và gia đình được quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án.
Đối với anh Nguyễn Văn K. Đây là phiên tòa được mở lần thứ 2 nhưng anh K vẫn vắng mặt không có lý do, nên Tòa án căn cứ vào điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt anh K.
Xét hôn nhân giữa chị L và anh K là hợp pháp, tuân thủ các quy định của pháp luật. Song qua xem xét thực tế và xác minh tại địa phương thì thấy rằng, cuộc sống của vợ chồng thời gian gần đây không được hạnh phúc, tính cách không hợp nhau. Mâu thuẫn liên tục xảy ra và đã thực sự căng thẳng, trầm trọng, hai bên đã sống ly thân không còn tình cảm gì với nhau nữa. Tòa án đã khuyên bàn hòa giải nhưng chị L vẫn một mực xin được ly hôn. Xét đời sống chung không thể tiếp tục kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Việc chị L xin ly hôn anh K là có căn cứ, cần được chấp nhận.
Về con chung: chị L và anh Kh 2 con chung như đã nêu ở trên. Ly hôn chị L có nguyện vọng trực tiếp nuôi con đến lúc trưởng thành, không yêu cầu anh K phải cấp dưỡng. Xét nguyện vọng nuôi con của chị L là chính đáng, hiện tại 2 con đang đang còn nhỏ và sinh sống cùng chị L tại xóm 1, xã B, thu nhập của chị L ổn định, đảm bảo cho việc nuôi con khôn lớn trưởng thành. Mặt khác, anh Kh thường xuyên đi làm ăn xa, vắng nhà nên không có điều kiện trực tiếp nuôi con. Do đó, cần giao 2 con chung cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng cũng là phù hợp, đúng quy định của pháp luật. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho anh K vì chị L không yêu cầu.
Về tài sản chung: Chị L không yêu cầu Tòa án giải quyết nên miễn xét.
Về án phí: Chị L phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Tại phiên Tòa đại diện viện kiểm sát có ý kiến phát biểu: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, HĐXX và Thư ký cụ thể như sau: Thẩm phán được phân công thụ lý giải quyết vụ án đã thực hiện các quy định tại điều 203 BLTTDS năm 2015. Tòa án đã thụ lý đúng thẩm quyền và xác định đúng quan hệ tranh chấp. Việc chấp hành theo pháp luật tố tụng dân sự của thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký đã tuân thủ đúng pháp luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa Thẩm phán, HĐXX và Thư ký thực hiện đúng trình tự thủ tục tố tụng giải quyết vụ án. Với các tài liệu do đương sự cung cấp và thẩm phán thu thập có tại hồ sơ. Đại diện Viện kiểm sát đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về ly hôn và yêu cầu về con chung.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào: khoản 1 điều 28, điều 227 Bộ luật tố tụng Dân sự; điều 56, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và Gia đình.
Xử: Cho chị Trần Thị L được ly hôn anh Nguyễn Văn K.
Về con chung: Giao 2 con chung là Nguyễn Văn Đức T – sinh ngày 30/9/2016 và Nguyễn Trúc L – sinh ngày 28/01/2019 cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng đến lúc trưởng thành. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con đối với anh K.
Anh Nguyễn Văn K có quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được quyền cản trở.
Về án phí: Căn cứ điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Khoản 5 điều 27 Nghị quyết 326/2016/ UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Buộc chị Trần Thị L phải nộp 300.000 đồng án phí Dân sự sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng chị L đã nộp tại Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Yên Thành theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0003696 ngày 14/5/2019. Chị Loan đã nộp đủ án phí.
Án xử công khai sơ thẩm. Chị L có mặt được quyền kháng cáo bản án lên Tòa án cấp phúc thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh K vắng mặt, được quyền kháng cáo bản án lên Tòa án cấp phúc thẩm trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.
Bản án 47/2019/HNGĐ-ST ngày 28/06/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình
Số hiệu: | 47/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Yên Thành - Nghệ An |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 28/06/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về