Bản án 47/2019/HNGĐ-ST ngày 18/11/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN B, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 47/2019/HNGĐ-ST NGÀY 18/11/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 18 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện B xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 231/2019/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 7 năm 2019 về ly hôn và tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 50/2019/QĐXX-ST ngày 10 tháng 10 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 23/2019/QĐST-HNGĐ ngày 28 tháng 10 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Phan Ngọc L, sinh năm 1990;

Địa chỉ cư trú: Ấp B, xã T, huyện B, tỉnh Tây Ninh. Có mặt.

2. Bị đơn: Anh Phạm Văn C, sinh năm 1984;

Địa chỉ cư trú: Ấp B, xã T, huyện B, tỉnh Tây Ninh. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 15 tháng 7 năm 2019 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn chị Phan Ngọc L trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Phạm Văn C tự tìm hiểu nhau một thời gian và được gia đình hai bên tổ chức lễ cưới vào năm 2008, hôn nhân tự nguyện và có đăng kY kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện B, tỉnh Tây Ninh vào ngày 23 tháng 10 năm 2008. Thời gian đầu vợ chồng chị chung sống hạnh phúc, đến tháng 3 năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh C có quan hệ với người phụ nữ khác, anh C không lo làm ăn chăm sóc vợ con, thường xuyên uống rượu, về nhà hay đánh đập chị, chị đã khuyên nhiều lần nhưng anh C vẫn không thay đổi. Chị và anh C chính thức ly thân từ tháng 3 năm 2019 cho đến nay. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, chị yêu cầu ly hôn với anh Phạm Văn C Về con chung: Chị và anh C có 02 con chung tên là Phạm Văn K, sinh ngày 23 tháng 5 năm 2007 và cháu Phạm Ngọc Như Y, sinh ngày 25 tháng 10 năm 2016. Khi anh chị ly thân, cháu Như Y đang sống chung với chị, cháu K đang sống chung với anh C. Nay ly hôn chị yêu cầu được nuôi cháu Như Y, chị đồng ý giao cháu K cho anh C tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Chị và anh C không phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn- anh Phạm Văn C đã được Tòa án thông báo về việc thụ lý vụ án và được triệu tập đến tham gia phiên hòa giải hợp lệ nhiều lần nhưng anh C không đến và cũng không gửi văn bản cho Tòa án trình bày ý kiến đối với yêu cầu của chị L và việc giải quyết vụ án.

Tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện B tham gia phiên Tòa trình bày:

Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, thư ký và Hội đồng xét xử: Thẩm phán, thư ký thụ lý giải quyết đúng thẩm quyền, việc thu thập chứng cứ, chuẩn bị xét xử và ra quyết định đưa vụ án ra xét xử đều đảm bảo đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng: Nguyên đơn đã chấp hành và thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn là anh C đã được triệu tâp hợp lệ nhưng vắng mặt lần thứ 2 nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt là đúng theo quy định của pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện B chưa thấy vấn đề vi phạm tố tụng nên đề nghị Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử theo quy định.

Về nội dung vụ án: Đề nghị HĐXX áp dụng Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị L, cho chị L được ly hôn với anh C. Áp dụng Điều 81, Điều 82 và Điều 83 giao cháu Y cho chị L trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục, giao cháu K cho anh C trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Ghi nhận chị L không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung và nợ chung: Chị L không yêu cầu giải quyết nên không xem xét giải quyết.

Về án phí hôn nhân sơ thẩm chị L phải chịu theo quy định của pháp luật.

Anh C không phải chịu án phí Những yêu cầu, kiến nghị đề nghị khắc phục vi phạm tố tụng ở giai đoạn sơ thẩm: không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án do các bên cung cấp, qua kết quả thẩm tra các chứng cứ tại phiên tòa, ý kiến của kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Anh Phạm Văn C đã được Tòa án tống đạt giấy triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt. Do đó Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh C theo quy định tại Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự là phù hợp theo quy định của pháp luật.

[2] Về hôn nhân: Chị L và anh C trên cơ sở tự nguyện và đi đến hôn nhân từ năm 2008 và có đăng ký kết hôn tại UBND xã T vào năm 2008 nên hôn nhân của chị L và anh C là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.

Theo chị L mâu thuẫn phát sinh là do anh C có quan hệ với người phụ nữ khác, không lo làm ăn, chăm sóc vợ con, thường xuyên uống rượu, về nhà hay đánh đập chị, chị đã khuyên nhiều lần nhưng anh C vẫn không thay đổi. Quá trình xác minh cho thấy, việc anh C thường xuyên đánh đập chị L là có, anh chị đã ly thân từ tháng 3 năm 2019 cho đến nay. Trong thời gian ly thân cả hai không có giải pháp khắc phục hàn gắn tình cảm vợ chồng. Nay chị L yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh C. Hội đồng xét xử xét thấy: anh C đã được Tòa án thông báo về việc chị L yêu cầu ly hôn với anh C đồng thời triệu tập anh C nhiều lần nhưng anh C không có ý kiến gì phản đối yêu cầu của chị L. Thời gian chị L và anh C ly thân đã lâu, trong thời gian ly thân anh chị không có hàn gắn hôn nhân, do đó có cơ sở cho rằng vợ chồng anh chị không còn tình cảm, đời sống chung không thể kéo dài, không còn khả năng đoàn tụ nên xét chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị L đối với anh C là phù hợp với quy định tại Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Chị L và anh C xác định có hai con chung tên Phạm Văn K, sinh ngày 23 tháng 5 năm 2007 và cháu Phạm Ngọc Như Y, sinh ngày 25 tháng 10 năm 2016. Từ ngày ly thân cháu Y sống với chị L, cháu K sống với anh C. Xét thấy cháu Y còn nhỏ (chưa đủ 37 tháng tuổi) nên việc giao cháu Y cho chị L tiếp tục trong nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp để đảm bảo cho sự phát triển bình thường của cháu. Đối với cháu K đã trên 7 tuổi, qua làm việc cháu K có nguyện vọng mong muốn được sống với anh C. Xét thấy yêu cầu của chị L phù hợp với nguyện vọng của cháu K nên việc giao cháu K cho anh C tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục là phù hợp. Ghi nhận chị L không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con.

Anh C và chị L có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Chị L không yêu cầu nên Tòa án không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Chị L phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lY và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Phan Ngọc L đối với anh Phạm Văn C Chị Phan Ngọc L được ly hôn với anh Phạm Văn C.

2. Về con chung: Giao cháu Phạm Ngọc Như Y, sinh ngày 25 tháng 10 năm 2016 cho chị L tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Giao cháu Phạm Gia K, sinh ngày 23 tháng 5 năm 2007 cho anh C tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục.

Anh Phạm Văn C và chị Phan Ngọc L không phải cấp dưỡng nuôi con.

Anh C và chị L có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Chị L và anh C không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về án phí: Chị Phan Ngọc L phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí sơ thẩm Hôn nhân và gia đình, khấu trừ tiền tạm ứng án phí chị L đã nộp 300.000 đồng theo biên lai số 0022071 ngày 15 tháng 7 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện B, tỉnh Tây Ninh. Chị L đã nộp xong tiền án phí hôn nhân sơ thẩm Anh Phạm Văn C không phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm.

5. Chị L có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án. Anh C có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại Ủy ban nhân dân xã nơi anh C cư trú.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

243
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 47/2019/HNGĐ-ST ngày 18/11/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:47/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bến Cầu - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về