TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIM BẢNG, TỈNH HÀ NAM
BẢN ÁN 47/2018/HS-ST NGÀY 09/10/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 09 tháng 10 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 49/2018/TLST-HS ngày 24 tháng 9 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 48/2018/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 9 năm 2018 đối với bị cáo:
Đỗ Đăng Q, sinh năm 1993 tại Hà Nội; nơi cư trú: Xóm B, thôn D, xã H, huyện Ư, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đỗ Đăng S và bà Nguyễn Thị B; vợ, con: Chưa có; tiền án: Ngày 26/01/2016 bị Tòa án nhân dân thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” và ngày 10/3/2016 bị Tòa án nhân dân huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình xử phạt 06 tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản" (bị cáo chấp hành xong ngày 04/5/2017); tiền sự: Không; bị tạm giữ ngày 09/8/2018 đến ngày 12/8/2018 chuyển tạm giam cho đến nay. (có mặt)
- Bị hại:
Anh Nguyễn Văn D, sinh năm 1979; trú tại: Thôn P, xã T, huyện K, tỉnhHà Nam. (vắng mặt)
Chị Trần Thị Th, sinh năm 1992; trú tại: Thôn Đ, xã Đ, huyện Ư, thành phố Hà Nội. (vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Từ ngày 27 tháng 12 năm 2017 đến ngày 03 tháng 01 năm 2018, Đỗ ĐăngQ đã nhiều lần rủ và cùng Nguyễn Phúc T đi trộm cắp xe môtô trên địa bàn huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam rồi mang bán cho Nguyễn Phúc H lấy tiền tiêu sài cá nhân, cụ thể như sau:
Vụ thứ nhất: Khoảng 10 giờ ngày 27 tháng 12 năm 2017, Đỗ Đăng Q gặp Nguyễn Phúc T tại thôn thôn D, xã H, huyện Ư, thành phố Hà Nội rồi rủ T đi trộm cắp tài sản, T đồng ý điều khiển xe môtô, biển kiểm soát 29Y3-319.77 chở Q đến thôn P, xã T, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam thì thấy cửa cổng nhà ông Tạ Văn T1 mở, trong sân có dựng một chiếc xe môtô nhãn hiệu Honda loại Wave, biển kiểm soát 90B1-38425 của anh Nguyễn Văn D. Sau khi quan sát thấy không có người, T điều khiển xe đi qua nhà ông T1 khoảng 20m thì dừng lại ngồi trên xe cảnh giới để Q đi vào sân nhà ông T1 dùng vam phá khóa hình chữ T mang theo tra vào ổ khóa điện, dùng tay vặn từ trái sang phải khoảng 2 đến 3 lần thì mở được khóa điện, Q đề nổ máy rồi điều khiển xe môtô, biển kiểm soát 90B1-38425 của anh Nguyễn Văn D ra ngoài cùng T đi đến khu vực cầu TT, xã H, huyện huyện Ư, thành phố Hà Nội thì dừng lại lấy tô vít trong người tháo biển số xe ném xuống sông Đáy và điều khiển xe về nhà. Đến ngày 28 tháng 12 năm 2017, Q gọi điện cho Nguyễn Phúc H nói “Có con Wave màu xanh ngọc không giấy tờ có lấy không tao bán rẻ cho”, H hiểu ý Q nói muốn bán xe trộm cắp nên đã mua chiếc xe môtô trên của Q với giá 4.000.000đồng.
Vụ thứ hai: Khoảng 12 giờ ngày 03 tháng 01 năm 2018, Đỗ Đăng Q gặp Nguyễn Phúc T tại khu vực cầu TT, xã H, huyện huyện Ư, thành phố Hà Nội rồi rủ T đi trộm cắp tài sản, T đồng ý điều khiển xe môtô nhãn hiệu Honda Wave không biển số chở Q đi trộm cắp xe môtô. Khi đi đến địa bàn thôn Đ, xã N, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam thì thấy trước cửa nhà ông Trần Xuân N có dựng một chiếc xe môtô, nhãn hiệu Honda Wave, biển kiểm soát 29Y3-313.72 của chị Trần Thị Th. Quan sát thấy không có người, T điều khiển xe đi qua nhà ông N khoảng 02m thì dừng lại ngồi trên xe cảnh giới để Q đi bộ đến chỗ dựng xe dùng vam phá khóa hình chữ T mang theo tra vào ổ khóa điện và dùng tay vặn từ trái sang phải khoảng 2 đến 3 lần thì mở được khóa điện, Q đề nổ máy rồi điều khiển xe môtô, biển kiểm soát 29Y3-313.72 của chị Th đi ra nơi T đứng rồi cùng T điều khiển xe môtô đến khu vực cầu TT, xã H, huyện huyện Ư, thành phố Hà Nội thì dừng lại lấy tô vít tháo biển số xe vứt xuống sông Đáy rồi cả 2 điều khiển xe môtô đi chơi. Khoảng 20 giờ cùng ngày, Q đưa xe môtô trộm cắp được của chị Th cho T nói “Cứ đi đi, lúc nào bán được thì bán”. Đến ngày 07 tháng 01 năm 2018, khi T đang tham gia giao thông tại quận HĐ, thành phố Hà Nội thì bị tổ tuần tra Công an thành phố Hà Nội kiểm tra hành chính, phát hiện hành vi trộm cắp xe môtô của T nên đã lập biên bản và bàn giao T cùng chiếc xe môtô cho Công an huyện Kim Bảng để giải quyết theo thẩm quyền. Sau khi biết T bị bắt, Q đã bỏ trốn khỏi địa phương nên cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Kim Bảng đã ra quyết định truy nã đối với Đỗ Đăng Q. Ngày 09 tháng 8 năm 2018, Q bị Công an phường Điện Biên Phủ, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội bắt giữ và bàn giao cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Kim Bảng để giải quyết theo thẩm quyền.
Ngoài các hành vi phạm tội nêu trên, Đỗ Đăng Q còn khai nhận: Ngày 28/12/2017, Q cùng Nguyễn Phúc T đã trộm cắp một chiếc xe môtô nhãn hiệu Honda Wave không nhớ biển số trên địa bàn huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam. Sau đó T đã bán chiếc xe này cho một người đàn ông tên Tuấn ở huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội.
Tại các bản kết luận định giá số 01, 03 ngày 15, 16 tháng 01 năm 2018 của Hội đồng định giá huyện Kim Bảng kết luận: Theo giá thị trường hiện tại chiếc xe môtô không biển số nhãn hiệu HONDA WAVE, số máy 7028740, số khung 1255FY029447 của chị Trần Thị Th có giá là 6.000.000đồng. Chiếc xe môtô không biển số nhãn hiệu HONDA WAVE ANPHA, màu sơn xanh - đen - bạc, số máy 3349017, số khung 1200BY548890 của anh Nguyễn Văn D có giá là 7.000.000đồng.
Tại bản cáo trạng số 48/CT-VKSKB ngày 24/9/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam đã truy tố bị cáo Đỗ Đăng Q về tội "Trộm cắp tài sản " theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố như bản cáo trạng đã nêu đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm g, h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Đỗ Đăng Quang từ 24 đến 30 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 09/8/2018; ngoài ra còn đề nghị về án phí và quyền kháng cáo. Bị cáo thừa nhận các hành vi phạm tội đúng như bản cáo trạng đã truy tố, nhưng xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng sự khoan hồng của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Bảng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều tuân thủ đúng pháp luật.
[2] Về lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại và những người tham gia tố tụng khác, đúng như bản cáo trạng đã nêu. Lời nhận tội của bị cáo còn được chứng minh bởi lời khai của bị cáo khác, biên bản xác định hiện trường, vật chứng thu giữ, kết luận định giá tài sản cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy đã có đủ cơ sở khẳng định: Khoảng 10 giờ 30 ngày 27 tháng 12 năm 2017, tại thôn P, xã T, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam, bị cáo Nguyễn Phúc T đã đứng cảnh giới cho bị cáo Đỗ Đăng Q trộm cắp chiếc xemôtô, biển kiểm soát 90B1-384.25 của anh Nguyễn Văn D trị giá 7.000.000 đồng, sau đó Q bán chiếc xe này cho bị cáo Nguyễn Phúc H với giá 4.000.000 đồng. Đến khoảng 13 giờ ngày 03 tháng 01 năm 2018, tại thôn Đ, xã N, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam, cũng với hành vi tương tự, bị cáo T đứng cảnh giới để cho bị cáo Q trộm cắp chiếc xe môtô, biển kiểm soát 29Y3-313.72 của chị Trần Thị Th trị giá 6.000.000đồng. Các hành vi nêu trên của bị cáo Đỗ Đăng Q và bị cáo Nguyễn Phúc T đã đầy đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự. Hành vi tiêu thụ tài sản biết rõ là do người khác phạm tội mà có của bị cáo Nguyễn Phúc H đã đủ yếu tố cấu thành tội "Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo quy định tại khoản 1 Điều 323 của Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên các hành vi phạm tội của bị cáo T và bị cáo H đã bị Tòa án nhân dân huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam xét xử vào ngày 17/5/2018, đến nay bản án đã có hiệu lực pháp luật, nên không đặt ra xem xét đối với bị cáo T và bị cáo H trong vụ án này.
[3] Các hành vi phạm tội nêu trên của bị cáo Q đã trực tiếp xâm phạm đến khách thể được pháp luật hình sự bảo vệ, đó là quyền sở hữu về tài sản của công dân. Bị cáo thực hiện các hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, chỉ vì muốn có tiền tiêu sài mà không cần phải tốn nhiều sức lao động, bị cáo đã cùng bị cáo T sử dụng xe môtô đi lang thang tìm tài sản để trộm cắp. Khi thấy tài sản là những chiếc xe môtô không có người trông coi, các bị cáo đã lợi dụng sự sơ hở, mất cảnh giác của những người bị hại rồi lén lút thực hiện hành vi phạm tội; thể hiện sự liều lĩnh, táo tợn, xem thường kỷ cương pháp luật, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự trên địa bàn, gây tâm lý hoang mang lo sợ trong nhân dân, nên cần phải xét xử thật nghiêm khắc, tiếp tục cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội thêm một thời gian dài mới có đủ tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung trong toàn xã hội. Việc Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Bảng đã truy tố để xét xử bị cáo về tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự và đề nghị mức hình phạt tù như trên đối với bị cáo là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[4] Xét vai trò của bị cáo trong vụ án thấy: Bị cáo Q là người khởi xướng và trực tiếp thực hiện các hành vi phạm tội, nên giữ vai trò chính; bị cáo T là người dùng xe môtô trở Q đi thực hiện các hành vi phạm tội, nên giữ vai trò đồng phạm giúp sức; bị cáo H thực hiện hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, nên giữ vai trò độc lập.
[5] Xét nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo Q thấy: Bị cáo có nhân thân rất xấu, đã bị kết án về tội Trộm cắp tài sản, chưa được xóa án tích nay lại phạm tội và còn phạm tội hai lần trở lên, nên bị cáo phải chịu các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g, h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Hơn nữa sau khi gây án, bị cáo đã bỏ trốn khỏi địa phương, gây khó khăn trong quá trình giải quyết vụ án, vì vậy cần phải xem xét một cách đầy đủ, toàn diện vụ án, nhân thân bị cáo để tuyên một mức án tương xứng với hành vi phạm tội do bị cáo gây ra. Tuy nhiên tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của bản thân, nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Khi lượng hình sẽ xem xét để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt, nhằm giúp bị cáo yên tâm cải tạo, cũng là thể hiện chính sách nhân đạo, sự độ lượng khoan hồng của pháp luật nhà nước ta.
[6] Đối với hành vi trộm cắp tài sản ngày 28/12/2017 mà bị cáo Q khai cùng bị cáo T trộm cắp chiếc xe môtô nhãn hiệu Honda Wave không nhớ biển số trên địa bàn huyện Kim Bảng. Sau đó T đã bán chiếc xe này cho một người đàn ông tên Tuấn ở huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội. Song do bị cáo T không biết rõ họ, tên đệm, tuổi, địa chỉ cụ thể của người đàn ông tên Tuấn, nên cơ quan cảnh sát điều tra chưa xác minh, làm rõ được. Cơ quan cảnh sát điều tra đã thông báo tìm người bị hại nhưng chưa xác định được. Do vậy cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Kim Bảng đã tách hành vi trộm cắp tài sản ngày 28/12/2017 của bị cáo Q và bị cáo T để tiếp tục điều tra, khi nào có căn cứ sẽ xử lý theo quy định của pháp luật là phù hợp.
[7] Về xử lý vật chứng, trách nhiệm dân sự: Các tài sản là vật chứng của vụ án đã được xử lý xong theo Bản án số 24/2018/HS-ST ngày 17/5/2018 của Tòa án nhân dân huyện Kim Bảng, nay bản án đã có hiệu lực pháp luật, không ai có yêu cầu gì khác về vật chứng và trách nhiệm dân sự, nên không đặt ra xem xét.
[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và khoản 1 mục I phần A Danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
[9] Tuyên quyền kháng cáo cho bị cáo, bị hại theo quy định tại các Điều 331, 332 và 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm g, h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự.
- Tuyên bố bị cáo Đỗ Đăng Q phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
- Xử phạt bị cáo Đỗ Đăng Q 02 (hai) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 09/8/2018.
- Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Đỗ Đăng Q phải chịu 200.000đồng.
Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 47/2018/HS-ST ngày 09/10/2018 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 47/2018/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Kim Bảng - Hà Nam |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 09/10/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về