TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN BÌNH, TỈNH YÊN BÁI
BẢN ÁN 47/2017/HNGĐ-ST NGÀY 14/12/2017 VỀ LY HÔN, CON CHUNG
Ngày 14 tháng 12 năm 2017 tại Tòa án nhân dân huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 215/2017/TLST - HNGĐ ngày 16/10/2017 về việc ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 45/2017/QĐST – HNGĐ ngày 04 tháng 12 năm 2017, giữa: Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị L, sinh năm 1982, có mặt; Trú tại thôn L.Th, xã T.H, huyện YB, tỉnh Yên Bái.
Bị đơn: Anh Hoàng Minh H, sinh năm 1977, có đơn xin xét xử vắng mặt; Trú tại thôn D Tr, xã Đ Đ, huyện Y B, tỉnh Yên Bái.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện đề ngày 16/10/2017 và các lời khai tiếp theo, nguyên đơn là chị Nguyễn Thị L trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Tôi kết hôn với anh Hoàng Minh H trên cơ sở tự nguyện và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ Đ , huyện Y B, tỉnh Yên Bái vào ngày 05 tháng 10 năm 2010. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống không hòa thuận, hạnh phúc, nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, tính tình không hợp. Anh H thường xuyên chơi bời, nghiện ma túy, không quan tâm đến vợ con dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trở nên trầm trọng không thể khắc phục được. Hai vợ chồng cùng hai bên gia đình đã hòa giải nhiều lần nhưng anh H vẫn không thay đổi. Hai vợ chồng tôi đã sống ly thân từ năm 2015 và tôi đã về nhà mẹ đẻ ở thôn L.Th, xã T.H, huyện YB, tỉnh Yên Bái, không ai còn quan tâm đến ai nữa. Nay tôi xác định tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho tôi ly hôn anh Hoàng Minh H.
Về con chung : Tôi và anh Hoàng Minh H có một con chung là Hoàng Ngọc D sinh ngày 27 tháng 6 năm 2011. Khi ly hôn tôi xin nhận nuôi con và không yêu cầu anh Hoàng Minh H phải cấp dưỡng nuôi con. Bởi từ khi sinh ra, cháu Hoàng Ngọc D do tôi trực tiếp nuôi dưỡng, bản thân anh H không quan tâm đến con, anh H nghiện ma túy, không có nghề nghiệp và thu nhập đảm bảo việc cấp dưỡng.
Về tài sản chung, nợ chung : Tôi không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Anh Hoàng Minh H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do. Trong đơn xin giải quyết, xét xử vắng mặt (có xác nhận của UBND xã Đ Đ, huyện Y B), anh H đồng ý ly hôn chị L và đồng ý để chị Nguyễn Thị L trực tiếp nuôi cháu Hoàng Ngọc D; tài sản chung, nợ chung: Anh Hoàng Minh H không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại phiên tòa:
Chị Nguyễn Thị L vẫn giữ yêu cầu ly hôn và xin được nuôi cháu Hoàng Ngọc D và không yêu cầu anh Hoàng Minh H phải cấp dưỡng nuôi con.
Kiểm sát viên phát biểu về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Thư ký, các thành viên khác trong HĐXX và nguyên đơn trong quá trình chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
Về nội dung: Kiểm sát viên đề nghị: Áp dụng khoản 1 Điều 56; các Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình, khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/NQUBTVQH ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án: Chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Thị L về việc ly hôn và con chung, tuyên án phí theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào ý kiến của đương sự tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng:
Anh Hoàng Minh H đã nhận được Thông báo thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận không khai chứng cứ và hòa giải nhưng vắng mặt không có lý do, chị Nguyễn Thị L có đơn đề nghị Tòa án đưa vụ án ra xét xử, không cần hòa giải do anh H vắng mặt, vì vậy Tòa án không tiến hành hòa giải được thuộc trường hợp theo khoản 4 Điều 207 Bộ luật tố tụng dân sự, do đó Tòa án đưa vụ án ra xét xử là đảm bảo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
[2]Xét yêu cầu của chị Nguyễn Thị L:
Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị L và anh Hoàng Minh H có đăng ký kết hôn trên tinh thần tự nguyện của đôi bên nên quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị L và anh Hoàng Minh H là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã phân tích, động viên chị Nguyễn Thị L đoàn tụ gia đình với anh Hoàng Minh H nhưng chị Nguyễn Thị L vẫn kiên quyết xin ly hôn vì xác định tình cảm vợ chồng không còn và thực tế đã sống ly thân, không còn quan tâm đến nhau. Anh H cũng đồng ý ly hôn chị Lương. Như vậy, mâu thuẫn vợ chồng giữa chị Nguyễn Thị L và anh Hoàng Minh H đã trầm trọng, cuộc sống chung không có. Do đó yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị L là có căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình nên được chấp nhận.
Về con chung: Cháu Hoàng Ngọc D hiện vẫn đang do một mình chị Nguyễn Thị L trực tiếp nuôi dưỡng, nên đề nghị của chị Nguyễn Thị L về việc xin được nuôi cháu Hoàng Ngọc D là phù hợp với thực tế hoàn cảnh sống của các bên, đảm bảo lợi ích cho cháu Hoàng Ngọc D, nên được chấp nhận. Do xác định anh H không có khả năng cấp dương nuôi con nên chị Nguyễn Thị L không yêu cầu, vì vậy Hội đồng xét xử không xét việc cấp dưỡng.
Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự đều không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xét.
[3] Về án phí: Chị Nguyễn Thị L phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.
[4] Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng khoản 1 Điều 56; các Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình, khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/NQUBTVQH ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án:
1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị L được ly hôn anh Hoàng Minh H.
2. Về con chung: Giao cho chị Nguyễn Thị L trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cháu Hoàng Ngọc D sinh ngày 27 tháng 6 năm 2011 đến khi đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi theo pháp luật. Bên không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con, không ai được cản trở người đó thực hiện quyền này.
3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị L phải chịu 300.000đ ( ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị Nguyễn Thị L đã nộp là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2013/05243 ngày 16/10/2017 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái. Chị Nguyễn Thị L đã nộp đủ án phí.
Án xử sơ thẩm công khai, chị Nguyễn Thị L có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Hoàng Minh H vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Trường hợp bản án quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 47/2017/HNGĐ-ST ngày 14/12/2017 về ly hôn, con chung
Số hiệu: | 47/2017/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Yên Bình - Yên Bái |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 14/12/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về