TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 466/2022/DS-PT NGÀY 15/07/2022 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT, HỦY GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Ngày 15 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 52/2022/TLPT- DS ngày 18 tháng 02 năm 2022, về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất, hủy giấy CNQSDĐ”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 17/2021/DS-ST ngày 17 tháng 11 năm 2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 975/2022/QĐ-PT, ngày 09 tháng 6 năm 2022, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Lê Thị T, sinh năm 1978; Địa chỉ: 124 ấp H, xã B, huyện T, tỉnh Long An (vắng mặt).
Người đại diện theo ủy quyền của bà T: Ông Phan Văn C, sinh năm 1958; Địa chỉ: Ấp G, xã N, huyện T, tỉnh Long An - Văn bản ủy quyền ngày 30/8/2020 (có mặt).
2. Bị đơn:
2.1. Ông Lê Thành X, sinh năm 1937 (vắng mặt).
2.2. Bà Nguyễn Thị T1, sinh năm 1932 (vắng mặt). Cùng địa chỉ: Ấp H, xã B, huyện T, tỉnh Long An.
Người đại diện theo ủy quyền của ông X, bà T1: Ông Lê Đức Th, sinh năm 1974; Địa chỉ: Ấp H, xã B, huyện T, tỉnh Long An - Văn bản ủy quyền ngày 11/9/2020 (vắng mặt).
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Ông Nguyễn Văn T2, sinh năm 1977; Địa chỉ: 124 ấp H, xã B, huyện T, tỉnh Long An (vắng mặt).
Người đại diện theo ủy quyền của ông T2: Ông Phan Văn C, sinh năm 1958; Địa chỉ: Âp Gò Nôi, xã N, huyện T, tỉnh Long An - Văn bản ủy quyền ngày 30/8/2020 (có mặt).
3.2 Ông Lê Đức Th, sinh năm 1974 (vắng mặt);
3.3. Bà Huỳnh Thị P, sinh năm 1975 (vắng mặt);
Cùng địa chỉ: Ấp H, xã B, huyện T, tỉnh Long An 3.4. Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trương Nhật T, sinh năm 1983 - Giám đốc Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện T (vắng mặt).
Người kháng cáo: Bà Lê Thị T.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Ông Phan Văn C là người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn bà Lê Thị T và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn T2 trình bày:
Năm 1998 bà Lê Thị T và ông Nguyễn Văn T2 kết hôn, sinh sống tại ấp H, xã B, huyện T, tỉnh Long An. Năm 2002 ông Lê Thành X là cha ruột của bà T tặng cho vợ chồng bà T diện tích đất 30.797m2 tọa lạc tại ấp H, xã B, huyện T, tỉnh Long An. Vợ chồng bà T đã được Ủy ban nhân dân huyện T cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 663, diện tích 30.797m2 vào ngày 06/12/2002. Tháng 11/2012 ông X khởi kiện ra Tòa án về việc “Tranh chấp hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất” mà ông đã tặng cho vợ chồng bà T. Trước khi tranh chấp, vào năm 2012 ông X đưa kobe múc đất đắp bờ ngăn chia thửa đất số 663 ra làm ba phần, ông X tranh chấp phần giữa.
Đến năm 2014, qua hai cấp xét xử Tòa án căn cứ vào bản đồ trích đo địa chính ngày 28/02/2014 tuyên xử: Ông X được chia diện tích đất 19.308,6m2 thuộc một phần thửa 663; Buộc bà T phải trả lại cho ông X phần đất có diện tích 19.308,6m2 thuộc một phần thửa 663, tờ bản đồ số 6, đất tọa lạc tại ấp H, xã B, huyện T, tỉnh Long An do bà T đứng tên quyền sử dụng đất; Bà T được chia 9.654,3m2 thuộc một phần thửa 663 giáp thửa 607; Phần còn lại của thửa 663 giáp thửa 81 được tách thành thửa mới là 2094, diện tích 1.869m2 vẫn thuộc quyền sử dụng của bà T.
Sau khi bản án phúc thẩm có hiệu lực, ông X đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, còn bà T được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện T đổi sổ và được quyền sử dụng đất một phần thửa số 663 diện tích 9.619,4m2; Phần còn lại của thửa 663 giáp ranh thửa 81 đến ngày 25/12/2017 bà T được Sở Tài Nguyên và Môi trường tỉnh Long An cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 2094, tờ bản đồ số 6, diện tích 1.869m2. Khi phát sinh tranh chấp, ông X chiếm dụng ngăn cản không cho bà T sử dụng đất thửa đất 2094. Bà T đã nhiều lần yêu cầu ông X trả đất nhưng ông X không trả. Bà T khiếu nại, chính quyền địa phương hòa giải nhưng ông X không đồng ý trả lại diện tích đất 1.869m2 thuộc thửa 2094 cho bà T.
Do đó bà Lê Thị T khởi kiện yêu cầu ông Lê Thành X, bà Nguyễn Thị T1, vợ chồng ông Lê Đức Th, bà Huỳnh Thị P có nghĩa vụ trả lại cho bà T diện tích đất 1.869m2 thuộc thửa 2094, tờ bản đồ số 6, đất tọa lạc tại ấp H, xã B, huyện T, tỉnh Long An. Bà T tự nguyện cấp dưỡng nuôi ông X, bà T1 mỗi năm 3.000.000đồng, thời gian cấp dưỡng từ ngày 30/3/2022 (dương lịch) cho đến khi ông X và bà T1 chết.
Ông Lê Đức Th là người đại diện theo ủy quyền của bị đơn ông Lê Thành X và Nguyễn Thị T1 đồng thời là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày:
Ông Lê Thành X và Nguyễn Thị T1 là cha mẹ của ông và bà T. Vào năm 1975, ông X, bà T1 có khai khẩn đất hoang tại ấp H, xã B, huyện T, tỉnh Long An diện tích hơn 20ha. Do đất khai khẩn vượt hạn điền nên cha mẹ ông nhờ con gái là bà Lê Thị T đứng tên dùm 03 ha đất, việc này có sự thỏa thuận trong gia đình. Đến khi làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà T thì không đo đạc, Ủy ban nhân dân huyện T cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà T vào năm 2002 với diện tích 30.797m2 thuộc thửa 663, tờ bản đồ số 6, đất tọa lạc tại ấp H, xã B, huyện T, tỉnh Long An. Mặc dù bà T đứng tên quyền sử dụng đất, nhưng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà T vẫn do ông X cất giữ. Do bà T cần vay vốn ngân hàng nên đã viết cam kết với ông X để được lấy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thế chấp. Vì vậy, ngày 06/7/2011, bà T có viết giấy cam kết với ông X, bà T1. Nội dung giấy cam kết là ông X, bà T1 cho bà T 01ha, 01ha đến năm 2016 bà T hứa đong lúa cho ông X, bà T1 theo giá thị trường, còn lại 01ha bà T trả lại cho ông X, bà T1. Đến năm 2012, bà T có ý định chuyển nhượng toàn bộ diện tích đất thuộc thửa 663 nên ông X, bà T1 khởi kiện yêu cầu bà T trả lại 02ha cho ông X bà T1 và đồng ý cho bà T 01ha theo đúng cam kết ngày 06/7/2011.
Vụ việc đã được Tòa án nhân dân tỉnh Long An giải quyết bằng bản án dân sự phúc thẩm số 159/2014/DS-PT ngày 26/5/2014 buộc bà T trả lại cho ông X, bà T1 quyền sử dụng đất diện tích 19.308,6m2, bà T được chia diện tích đất 9.654,3m2. Khi đo đạc để giải quyết tranh chấp thì giữa ông X, bà T1 và bà T đều thống nhất xác định ranh đất tranh chấp của thửa 663 là 28.962m2, lúc đó ông X, bà T1 không biết thửa 663 còn lại 01 phần diện tích 1.869m2 như hiện nay. Ông X, bà T1 nghĩ nếu có phần đất còn lại thì cũng thuộc quyền sử dụng của ông X, bà T1 vì ông bà đã canh tác sử dụng phần diện tích đất 1.869m2 từ khi khai hoang đến nay, bà T chỉ đứng tên dùm do vượt hạn điền, hiện nay phần đất này ông X, bà T1 cho vợ chồng ông Th bà Phượng canh tác lúa, chứ bà T không canh tác phần đất này ngày nào.
Do đó, ông đại diện cho ông X bà T1 không đồng ý trả lại đất theo yêu cầu khởi kiện của bà T. Ngoài ra, ông X, bà T1 yêu cầu Tòa án hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CL 909242 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An đã cấp cho bà Lê Thị T ngày 25/12/2017 với diện tích đất 1.869m2 thuộc thửa 2094, tờ bản đồ số 6, đất tọa lạc tại ấp H, xã B, huyện T, tỉnh Long An; Đồng thời công nhận cho ông X, bà T1 được quyền tiếp tục sử dụng phần diện tích đất 1.869m2 thuộc thửa 2094, tờ bản đồ số 6, đất tọa lạc tại ấp H, xã B, huyện T, tỉnh Long An.
Bà Huỳnh Thị P là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày: Bà là vợ của ông Th, bà thống nhất với ý kiến của ông Th, không bổ sung gì thêm.
Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An do ông Trương Nhật T đại diện theo ủy quyền trình bày: Trình tự thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CL 909242 ngày 25/12/2017 với diện tích đất 1.869m2 thuộc thửa 2094, tờ bản đồ số 6, đất tọa lạc tại ấp H, xã B, huyện T, tỉnh Long An là đúng quy định của pháp luật và xin vắng mặt trong suốt quá trình Tòa án các cấp giải quyết vụ án.
Các đương sự thống nhất với mảnh trích đo địa chính số 15-2020 do Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện T duyệt ngày 09/6/2020 và thống nhất với giá đất theo Thông báo kết quả định giá ngày 16/7/2020 của Hội đồng định giá huyện T. Các đương sự không yêu cầu định giá lại.
Tại Bản án dân sự số 17/2021/DS-ST ngày 17 tháng 11 năm 2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An quyết định:
Căn cứ vào các Điều 5, 26, 34, 39, 147, 227, 228, 271 và 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015, khoản 1 Điều 31; khoản 4 Điều 32 của Luật Tố tụng Hành chính năm 2015; Điều 100 Luật đất đai năm 2013; Điều 26, điểm a khoản 2 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị T đối với ông Lê Thành X và bà Nguyễn Thị T1 về việc yêu cầu ông X và bà T1 phải trả lại thửa đất số 2094, tờ bản đồ số 6, diện tích 1.869m2 tại ấp H, xã B, huyện T, tỉnh Long An.
2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lê Thành X và bà Nguyễn Thị T1 về việc yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CL 909242 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An đã cấp cho bà Lê Thị T ngày 25/12/2017 đối với thửa đất số 2094, tờ bản đồ số 6, diện tích đất 1.869m2 tọa lạc tại ấp H, xã B, huyện T, tỉnh Long An.
3. Ông Lê Thành X và bà Nguyễn Thị T1 được tiếp tục sử dụng thửa đất số 2094, tờ bản đồ số 6, diện tích 1.869m2 tại ấp H, xã B, huyện T, tỉnh Long An 4. Vị trí, tứ cận, loại đất thể hiện theo Mảnh trích đo địa chính số 15-2020 được chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện T duyệt ngày 09/6/2020. (Mảnh trích đo này được kèm theo bản án).
5. Người được thi hành án và người phải thi hành án có trách nhiệm liên hệ cơ quan nhà nước có thẩm quyền để lập thủ tục kê khai, đăng ký, điều chỉnh giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp (hoặc một phần diện tích trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp) theo quyết định của bản án này.
6. Trường hợp bên phải thi hành án không giao nộp bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì bên được thi hành án/Cơ quan thi hành án có thẩm quyền có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền điều chỉnh, thu hồi, hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp (hoặc một phần diện tích trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp) theo quyết định của bản án này.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về chi phí thẩm định, đo vẽ, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 30/11/2021 nguyên đơn bà Lê Thị T kháng cáo đề nghị sửa bản án sơ thẩm theo hướng buộc ông X, bà T1 cùng với ông Th và bà Phượng trả lại cho bà T diện tích 1.869m2, tại thửa 2094, tờ bản đồ số 6, tọa lạc tại ấp Tân Hòa, xã B, huyện T, tỉnh Long An.
Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện theo ủy quyền của bà T cho rằng nguồn gốc diện tích đất tranh chấp là của ông X, bà T1 tặng cho bà T. Bà T viết giấy cam kết trả lại đất là do áp lực từ ông X, bà T1 ép buộc; nay đất đã cấp giấy cho bà T nên thuộc quyền sử dụng hợp pháp của bà T. Do đó, đề nghị chấp nhận đơn kháng cáo của bà T.
Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh: Về tố tụng, những người tiến hành tố tụng, các đương sự tuân thủ đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; bị đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đã được triệp tập hợp lệ hai lần nhưng vắng mặt nên xét xử vắng mặt họ theo quy định tại khoản 3 Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự. Về nội dung kháng cáo, nguồn gốc đất tranh chấp là của ông X, bà T1 nhờ bà T đứng tên dùm, được bà T thừa nhận và bà T cũng không sử dụng thửa đất này; từ trước tới nay ông X, bà T1 là người quản lý, sử dụng nhưng Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà T đối với diện tích 1.869m2 tại thửa 2094, tờ bản đồ số 6 là không đúng pháp luật. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử có căn cứ, đề nghị bác đơn kháng cáo của bà T, giữ y bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Tòa án nhận định:
Đơn kháng cáo của nguyên đơn bà Lê Thị T đúng theo quy định của pháp luật nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm.
[1]. Xét đơn kháng cáo của nguyên đơn bà T yêu cầu bị đơn ông X, bà T1 cùng với ông Th và bà Phượng trả lại cho bà T diện tích 1.869m2, tại thửa 2094, tờ bản đồ số 6, tọa lạc tại ấp Tân Hòa, xã B, huyện T, tỉnh Long An:
[1.1]. Tại phiên tòa sơ thẩm, hai bên đương sự đều thừa nhận nguồn gốc thửa đất 663, tờ bản đồ số 6 có diện tích là 28.962,9m2 (19.308,6m2 + 9.654,3m2) và thửa đất 2094, tờ bản đồ số 6 có diện tích 1.869m2 là của ông X, bà T1 khai hoang.
[1.2]. Do ông X, bà T1 đứng tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 09/8/1996 vượt hạn điền nên ông X, bà T1 nhờ bà T (là con) đứng tên đất dùm. Năm 2002 ông X, bà T1 làm Hợp đồng tặng cho là hình thức để bà T làm thủ tục đứng tên thửa đất 663; tuy nhiên, sau khi bà T được cấp giấy thì ông X, bà T1 là người giữ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
[1.3]. Ngày 06/7/2011, bà T có viết Giấy cam kết có nội dung thừa nhận đứng tên dùm cho ông X, bà T1 3ha (mẫu) đất. Trong đó, ông X bà T1 cho bà T 1ha; 1ha thì bà T hứa đến năm 2016 sẽ đong lúa cho ông X, bà T1 theo giá thị trường; còn lại 1ha bà T sẽ trả cho ông X, bà T1 (BL: 207, 208).
[1.4]. Do ông X, bà T1 không tin tưởng bà T, nên đã khởi kiện về việc “Tranh chấp hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất” với bà T tại Tòa án; tại Bản án dân sự phúc thẩm số 159/2014/DS-PT ngày 26/5/2014 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An buộc bà T trả lại cho ông X, bà T1 quyền sử dụng đất diện tích 19.308,6m2, bà T chỉ được cho diện tích đất 9.654,3m2 tại thửa 663, tờ bản đồ số 6. Diện tích 1.869m2 tại thửa 2094 (một phần thửa cũ 663), tờ bản đồ số 6, Tòa án không xem xét, giải quyết và ông X, bà T1 vẫn là người quản lý, sử dụng từ ngày khai hoang đến nay.
[1.5]. Ngày 15/12/2017 bà T làm đơn đề nghị cấp lại, cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa 663 và thửa 2094; ngày 25/12/2017 Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà T, trong đó có diện tích 1.869m2 tại thửa 2094, tờ bản đồ số 6 (BL:
235) là không đúng đối tượng sử dụng đất và không phù hợp với Bản án dân sự phúc thẩm số 159/2014/DS-PT ngày 26/5/2014 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An.
[2]. Từ những phân tích nêu trên, có căn cứ xác định nguồn gốc diện tích 1.869m2 tại thửa 2094, tờ bản đồ số 6 là của ông X, bà T1 khai hoang quản lý, sử dụng cho đến nay. Bà T kháng cáo yêu cầu ông X, bà T1 trả lại đất nhưng không cung cấp được chứng cứ mới để chứng minh cho yêu cầu của mình. Do đó, Hội đồng xét xử không chấp nhận lời trình bày của người đại diện theo ủy quyền của bà T; quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận; bác đơn kháng cáo của bà Lê Thị T, giữ nguyên bản án sơ thẩm. Bà T phải chịu án phí phúc thẩm.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
I. Không chấp nhận đơn kháng cáo của bà Lê Thị T; giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số: 17/2021/DS-ST ngày 17 tháng 11 năm 2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An như sau:
Căn cứ Điều 5, khoản 9 Điều 26, Điều 34, điểm a khoản 1 Điều 37, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 271, Điều 273 và khoản 3 Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; khoản 1 Điều 31, khoản 4 Điều 32 Luật Tố tụng Hành chính năm 2015; Điều 100 Luật đất đai năm 2013; khoản 1 Điều 26, điểm a khoản 2 Điều 27, khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị T đối với ông Lê Thành X và bà Nguyễn Thị T1 về việc yêu cầu ông X và bà T1 phải trả lại thửa đất số 2094, tờ bản đồ số 6, diện tích 1.869m2 tại ấp H, xã B, huyện T, tỉnh Long An.
2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lê Thành X và bà Nguyễn Thị T1 về việc yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CL 909242 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An đã cấp cho bà Lê Thị T ngày 25/12/2017 đối với thửa đất số 2094, tờ bản đồ số 6, diện tích đất 1.869m2 tọa lạc tại ấp H, xã B, huyện T, tỉnh Long An.
3. Ông Lê Thành X và bà Nguyễn Thị T1 được tiếp tục sử dụng thửa đất số 2094, tờ bản đồ số 6, diện tích 1.869m2 tại ấp H, xã B, huyện T, tỉnh Long An.
4. Vị trí, tứ cận, loại đất thể hiện theo Mảnh trích đo địa chính số 15-2020 được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện T duyệt ngày 09/6/2020 (Mảnh trích đo này được kèm theo bản án).
5. Người được thi hành án và người phải thi hành án có trách nhiệm liên hệ cơ quan nhà nước có thẩm quyền để lập thủ tục kê khai, đăng ký, điều chỉnh giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp (hoặc một phần diện tích trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp) theo quyết định của bản án này.
6. Trường hợp bên phải thi hành án không giao nộp bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì bên được thi hành án/Cơ quan thi hành án có thẩm quyền có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền điều chỉnh, thu hồi, hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp (hoặc một phần diện tích trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp) theo quyết định của bản án này.
7. Về chi phí đo đạc, định giá, xem xét thẩm định tại chỗ là 7.813.000 đồng, bà Lê Thị T phải chịu toàn bộ. Số tiền này bà T đã nộp đủ và chi xong.
8. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Lê Thị T phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Cho chuyển 1.074.675 đồng tạm ứng án phí bà Lê Thị T đã nộp theo Biên lai thu số 0000547 ngày 16/8/22019 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện T, tỉnh Long An sang án phí. Hoàn trả cho bà Lê Thị T số tiền còn thừa là 774.675 đồng.
II. Về án phí dân sự phúc thẩm: Bà Lê Thị T phải chịu 300.000 đồng; khấu trừ 300.000 đồng theo Biên lai thu số 0000088 ngày 06/12/2021 của Cục Thi hành án Dân sự tỉnh Long An, bà Lê Thị T đã nộp đủ án phí.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự;
thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
III. Bản án có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 466/2022/DS-PT ngày 15/07/2022 về tranh chấp quyền sử dụng đất, hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Số hiệu: | 466/2022/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 15/07/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về