Bản án 46/2021/HS-PT ngày 14/06/2021 về tội giữ người trái pháp luật

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 46/2021/HS-PT NGÀY 14/06/2021 VỀ TỘI GIỮ NGƯỜI TRÁI PHÁP LUẬT

Ngày 14 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 37/2021/TLPT-HS ngày 26 tháng 02 năm 2021 đối với bị cáo Lê Minh T do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 02/2021/HS-ST ngày 11/01/2020 của Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Vĩnh Long.

- Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: Lê Minh T, sinh năm: 1984; tên gọi khác: Trường.

Nơi cư trú: ấp Đ, xã T, huyện V, tỉnh Vĩnh Long; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 06/12; dân tộc: kinh; giới Uh: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn H và bà Bùi Thị V (chết); có vợ Trần Thị Trúc A và 01 người con; tiền án: không; tiền sự: không.

Nhân thân: ngày 06/12/2007, bị Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long xử phạt 03 tháng tù, về tội “Đánh bạc”; theo bản án số 156/2007/HSPT; nộp án phí và nộp phạt ngày 01/4/2008.

Ngày 25/4/2013, bị Tòa án nhân dân huyện V xử phạt 03 năm 06 tháng tù, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo bản án số 16/2013/HSST; bị cáo chấp hành hình phạt xong ngày 12/8/2015, nộp án phí ngày 03/6/2013.

Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

Ngoài ra, bị cáo Nguyễn Văn Bé S; bị hại Võ U; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án Nguyễn Bảo T không có kháng cáo hoặc không có liên quan đến kháng cáo, tòa không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Võ U, Nguyễn Bảo K, Lưu Nguyễn D, Nguyễn Văn Bé S và Lê Minh O là bạn bè quen biết nhau từ trước và không xảy ra mâu thuẫn gì với nhau; T, K, S và O thường đến nhà của T chơi.

Ngày 23/7/2020, T, K và Bé S đến nhà T chơi game “Giàu to” thắng thua bằng tiền trên mạng internet; trong lúc chơi game Bé S thắng được số tiền 500.000 đồng (tiền trong game có thể quy đổi thành tiền chuyển vào tài khoản ngân hàng); Bé S mượn T và K chuyển tiền chơi game thắng được vào tài khoản ngân hàng của T để T đưa tiền mặt cho Bé S sử dụng; sau đó K, T và O ra về. Trên đường về U, K, O tiếp tục ghé nhà bạn ở xã Trung hiếu chơi game thắng thua bằng tiền và bị thua hết tiền trong tài khoản game. U và K rủ nhau đăng nhập lấy trộm tiền trong tài khoản game của Bé Sau số tiền 200.000 đồng để chia nhau nạp vào tài khoản và tiếp tục chơi game.

Đến khoảng 22 giờ cùng ngày, T kiểm tra trong tài khoản game của Bé S thì phát hiện bị mất 200.000 đồng; nghi ngờ do U và K đã lấy trộm nên T nhắn U và hẹn đến Hiếu P gặp T để nói chuyện. Đúng hẹn T chở Bé S đến trước; U, K và O đến sau. K bước xuống xe trên tay cầm một con dao. K nói với T “Anh nói tôi lấy tiền gì trong tài khoản game của anh mà anh đổ thừa”; T nói “tụi bây làm bậy mà cầm dao dọa chém tao nữa hả, có gì đến nhà tao nói chuyện”; nói xong T và Bé S bỏ đi về nhà của T.

Đến khoảng 01 giờ ngày 24/7/2020 T ở nhà không thấy U và K đến nên T gọi điện thoại kêu U và K đến; biết có chuyện nên K không đến, U cho rằng không có đăng nhập vào tài khoản game của T để lấy trộm tiền nên điều khiển xe mô tô đến nhà của T để nói chuyện; O sợ có chuyện nên kêu U chở O đi cùng, U và O đi đến nhà T thì T đưa chìa khóa kêu Bé S mở cửa rào; T kêu U dẫn xe vào trong nhà rồi kêu Bé S khóa cửa rào và cửa nhà lại; sau đó T cất giữ chìa khóa. Sau khi U và O vào nhà, T bắt U ngồi trên ghế nhựa đặt ở giữa phòng khách; T chửi U về việc tiền trong tài khoản game bị mất, T hỏi U ai lấy, ai chủ mưu rồi dùng cây vũ ba khúc đánh nhiều cái vào người của U, nhưng U nói không có lấy; T nói “chừng nào K đến thì sẽ cho U về, nếu không thì U ở đây luôn, một mình U ôm nỗi không, nếu thằng K không đến thì U ôm hết và kêu U bằng mọi cách phải kêu K đến nhà T. Lúc này, U nhờ O gọi điện thoại nhờ người chở K đến; một lúc sau Lộc chở K đến trước nhà của T, T kêu Bé S mở cửa rào cho K vào; K không vào mà bỏ đi; trước khi đi K còn nói sẽ báo sự việc này cho cha của U biết; khi K về O nhìn thấy cửa rào chưa khóa nên cũng bỏ ra về cùng K; T kêu Bé S đóng cửa rào lại.

Sau khi K và O đi khỏi, T kêu P nhà ở đối diện với nhà T sang nhà T; sau khi P qua T kể lại sự việc bị mất tiền trong game và việc đang giữ U trong nhà. Sau đó, T rủ P đi tìm K để nói chuyện, P đồng ý; T kêu Bé S ở nhà canh chừng U; T điều khiển xe chở P đi tìm K nhưng không gặp, nên hai người quay trở về nhà T.

Khi về đến nhà, T tiếp tục dùng cây vũ ba khúc đánh U, P can ngăn; T nói với U “Nãy giờ tao nói với mày cái gì thì mày biết rồi đi phải bằng mọi cách mày kêu thằng K đến gặp tao”; U hứa về sẽ chở K đến gặp T hoặc U gặp K ở đâu thì sẽ báo cho T biết; T đồng ý cho U về khoảng 04 giờ ngày 24/7/2020.

Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 98/2020/TT ngày 11/8/2020 của Trung tâm pháp y – Sở y tế tỉnh Vĩnh Long kết luận: tỷ lệ tổn thương cơ thể của Võ Uy U là 05%. Đối với việc T gây thương cho U; U không yêu cầu xử lý hình sự đối với T và không yêu cầu bồi thường.

Tại bản án Hình sự sơ thẩm số: 02/2021/HS-ST ngày 11 tháng 01 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện Vđã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Lê Minh T phạm tội “Giữ người trái pháp luật”.

Căn cứ khoản 1 Điều 157; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 58 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Lê Minh T 09 (chín) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được Uh từ ngày bị cáo đi chấp hành án.

Ngoài ra Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Bé S 06 (sáu) tháng tù, về tội “Giữ người trái pháp luật”; quyết định về trách nhiệm dân sự; xử lý vật chứng; án phí và quyền kháng cáo vụ án theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 26 tháng 01 năm 2021 bị cáo Lê Minh T có đơn kháng cáo với nội dung: xin được hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo trình bày: vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Long phát biểu quan điểm: Sau khi phân tích hành vi phạm tội của bị cáo, phân tích các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, đề nghị áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật hình sự. Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 02/2021/HS-ST ngày 11 tháng 01 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện V. Căn cứ khoản 1 Điều 157; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 58 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Lê Minh T 09 (chín) tháng tù về tội” Giữ người trái pháp luật”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được Uh từ ngày bị cáo đi chấp hành án. Bị cáo phải chịu án phí phúc thẩm.

Lời nói sau cùng của bị cáo: xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện V, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện V, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng; do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Trong khoảng thời gian từ 1 giờ ngày 24/7/2020 bị cáo T đã có hành vi bắt giữ Võ Uy U tại nhà của T, khóa cửa không cho U ra về, còn dùng gậy 3 khúc đánh U với tỉ lệ thương tích 0,5%, để hỏi về sự việc mất 200.000 đồng trong tài khoản game của T. Đến khoảng 4 giờ cùng ngày khi được mọi người can ngăn T mới cho U ra về. Việc T bắt giữ U, không cho U đi trong thời gian 4 giờ là trái pháp luật, nên cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “ Bắt giữ người trái pháp luật” là có căn cứ.

Hành vi của T đã là tước đi quyền tự do, xâm phạm quyền công dân được pháp luật bảo vệ, xem thường pháp luật, bị cáo T biết rõ bị cáo không có quyền giữ người, nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện, nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự vì hành vi trái pháp luật của mình gây ra.

Xét kháng cáo của bị cáo xin hưởng án treo là không có căn cứ vì bị cáo có nhân thân xấu, đã có 2 lần bị tòa án kết án, và trong vụ án này bị cáo là người giữ vai trò chính, khi xét xử cấp sơ thẩm đã xem xét xét hết các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng đối với bị cáo, mức án cấp sơ thẩm quyết định cũng tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo. Bị cáo cũng không có tình tiết mới, nên không có căn cứ xem xét cho bị cáo. Do đó không chấp nhận kháng cáo của bị cáo.

[3] Lời phát biểu của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ.

[4] Về án phí hình sự phúc thẩm: Do không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, nên bị cáo phải chịu án phí phúc thẩm.

[5] Các Quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo. Giữ nguyên Bản án số: 02/2021/HS-ST ngày 11 tháng 01 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện V.

Căn cứ khoản 1 Điều 157; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 58 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Lê Minh T 09 (chín) tháng tù về tội “Giữ người trái pháp luật”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được Uh từ ngày bị cáo đi chấp hành án.

Án phí : căn cứ khoản 2 Điều 136, Điều 23 Nghị quyết 326/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ quốc hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án Buộc bị cáo Lê Minh T phải nộp 200.000 đồng án phí phúc thẩm.

Các Quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

209
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 46/2021/HS-PT ngày 14/06/2021 về tội giữ người trái pháp luật

Số hiệu:46/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Vĩnh Long
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về