Bản án 46/2021/HNGĐ-ST ngày 22/04/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình - ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIỒNG RIỀNG, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 46/2021/HNGĐ-ST NGÀY 22/04/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH - LY HÔN

Ngày 22 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 95/2021/TLST - HNGĐ ngày 10 tháng 3 năm 2021 về việc “Tranh chấp hôn nhân và gia đình - ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 62/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 22 tháng 3 năm 2021. Giữa:

1. Nguyên đơn: Anh Lê Hoàng N, sinh năm: 1997; địa chỉ: ấp Thạnh Hiệp, xã Thạnh Lộc, huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang (có mặt) Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn Lâm – Luật sư thuộc văn phòng luật sư Phạm Khắc Phương; địa chỉ: 15/7 đường Lê Hồng Phong, phường Trà Nóc, quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ (có mặt)

2. Bị đơn: Chị Nguyễn Thị Kim Th, sinh năm: 1996; địa chỉ: ấp Nguyễn Văn Thới, xã Thạnh Lộc, huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 03/02/2021, quá trình giải quyết vụ kiện và tại phiên tòa nguyên đơn Anh Lê Hoàng N trình bày:

Anh và Chị Nguyễn Thị Kim Th tự tìm hiểu quen biết nhau được cha mẹ hai bên đồng ý tổ chức lễ cưới vào năm 2020, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Thạnh Lộc, huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang vào ngày 20/7/2020.

Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc nhưng về sau thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng không hòa hợp tánh tình, bất đồng quan điểm sống nên thường xuyên cự cãi nhau. Mỗi khi xảy ra mâu thuẫn thì chị Thkhông tôn trọng cha, mẹ và anh chị em của anh, chị Thcòn dùng hung khí để hăm dọa anh. Mặc dù vợ chồng đã nhiều lần cố gắng khắc phục sửa chữa khuyết điểm để hàn gắn tình cảm vợ chồng và gia đình hai bên cũng nhiều lần khuyên nhủ nhưng không có kết quả, giữa anh và chị Thngày càng xảy ra mâu thuẩn nhiều hơn, cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc nên vào tháng 12/2020 anh và chị Thđã sống ly thân với nhau cho đến nay.

Trong quá trình chung sống anh và chị Thkhông có con chung:

Về tài sản chung: Anh Nxác định vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết.

Về nợ chung: Không có Nay Anh Nkhởi kiện yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết cho anh được ly hôn với chị Thoa Về con chung: Không có.

Về tài sản chung: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết Về nợ chung: Không có.

Tại bản tự khai ngày 15/3/2021, biên bản hòa giải ngày 22/3/2021, quá trình giải quyết vụ kiện và tại phiên tòa bị đơn Chị Nguyễn Thị Kim Th trình bày:

Chị Thxác định lời trình bày của Anh Lê Hoàng N về hôn nhân, con chung, nợ chung là đúng.

Chị Thcho rằng trong khi chung sống chị và Anh Ncũng có mâu thuẫn và bất đồng quan điểm với nhau, nhưng chỉ là những mâu thuẫn nhỏ cuộc sống hàng ngày không đến mức vợ chồng phải ly hôn. Anh Ncho rằng chị không tôn trọng cha, mẹ và anh chị em của anh và còn dùng hung khí để hăm dọa anh là không đúng. Chị nhiều lần muốn cùng Anh Nhòa giải những mâu thuẫn để hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng Anh Nkhông đồng ý và không cho chị cơ hội để sửa chữa những thiếu sót của bản thân.

Nay Anh Nkhởi kiện yêu cầu được ly hôn thì chị không đồng ý, chị còn thương anh Ninh, chị yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết cho chị được đoàn tụ tiếp tục chung sống với Anh Nđể hàn gắng tình cảm và tháo gỡ mâu thuẫn của vợ chồng.

Về con chung: Không có Về tài sản chung: Chị Thkhông đồng ý ly hôn nên Anh Nkhông yêu cầu giải quyết chị cũng đồng ý.

Về nợ chung: Không có.

Tại phiên tòa người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn cho rằng: Anh Nvà chị Thkết hôn vào năm 2020, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Thạnh Lộc, huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang vào ngày 20/7/2020 nên hôn nhân giữa anh, chị Thlà hợp pháp. Từ tháng 12/2020 đến nay Anh Nvà chị Thđã không quan tâm, chăm sóc, lo lắng cho nhau nên đã vi phạm nghĩa vụ của vợ chồng. Tuy lời trình bày về mâu thuẫn giữa vợ chồng của Anh Nvà chị Thlà khác nhau, tuy nhiên từ đó thấy được mâu thuẫn giữa Anh Nvà chị Thngày càng trầm trọng mà không có hướng khắc phục tốt hơn, nếu tiếp tục chung sống sẽ không có hạnh phúc. Nay Anh Ncương quyết ly hôn, không đồng ý tiếp tục với chị Thđề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên Tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Anh Nkhởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với chị Thnên đây là “Tranh chấp về hôn nhân và gia đình – xin ly hôn” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự. Chị Thlà bị đơn trong vụ án có nơi cư trú tại huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang nên theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang.

[2] Về nội dung:

- Xét về hôn nhân: Anh Nvà chị Thchung sống với nhau vào năm 2020, trên cơ sở hôn nhân hoàn toàn tự nguyện, có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật tại Ủy ban nhân dân xã Thạnh Lộc, huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang và được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 52 ngày 20/7/2020. Do vậy việc kết hôn của anh, chị đã tuân thủ đúng theo quy định của pháp luật, quan hệ hôn nhân của anh, chị là hợp pháp. Do đó khi có yêu cầu ly hôn thì Toà án áp dụng luật Hôn nhân gia đình năm 2014 để giải quyết.

Xét về mâu thuẫn giữa Anh Nvà chị thoa, lúc đầu chỉ là mâu thuẫn nhỏ trong cuộc sống mà các cặp vợ chồng thường mắc phải nhưng anh, chị không tìm hiểu nguyên nhân từ đâu để khắc phục, tháo gỡ mà để cho mâu thuẫn kéo dài ngày càng trầm trọng, dẫn đến Anh Nkhởi kiện yêu cầu xin được ly hôn với chị Thoa. Từ khi thụ lý vụ kiện Tòa án tiến hành mời hai bên hòa giải động viên anh, chị bỏ qua những mâu thuẫn nhỏ để tiếp tục đoàn tụ chung sống với nhau nhưng Anh Ncương quyết xin ly hôn vì cho rằng chị và chị Thkhông còn phù hợp tánh tình, bất đồng quan điểm sống, thường xuyên cự cãi, chị Thkhông tôn trọng cha, mẹ và anh chị em của anh và còn dùng hung khí để hăm dọa anh, anh và chị Thkhông thể chung sống với nhau được nữa. Hội đồng xét xử xét thấy quá trình chung sống giữa anh, chị đã xảy ra nhiều mâu thuẫn kéo dài mà không thể tự hòa giải với nhau, đồng thời anh, chị cũng đã nhiều lần khắc phục mâu thuẫn hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng không có kết quả. Anh, chị đã sống ly thân từ tháng 12/2020, từ đó đến nay hai bên không quan tâm, chăm sóc, lo lắng cho nhau nên đã vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng. Nay Anh Ncương quyết xin ly hôn chứ không đồng ý chung sống với chị Thnữa. Từ những cơ sở nhận định và phân tích trên cho thấy mâu thuẫn giữa Anh Nvà chị Thđã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nếu tiếp tục chung sống sẽ không có hạnh phúc. Do đó, Anh Nyêu cầu được ly hôn là có căn cứ, phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, cần được chấp nhận.

- Về con chung: Anh N và chị Th xác định anh, chị không có con chung.

- Về tài sản chung: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa anh Ninh, chị Thxác định tự thỏa thuận không yêu cầu giải quyết.

- Về nợ chung: Anh N và chị Th xác định không có.

- Về án phí ly hôn sơ thẩm: Anh Nyêu cầu xin ly hôn nên phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0002158 ngày 10/3/2020 của Chi Cục thi hành án dân sự huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang.

Xét lời đề nghị của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn là có căn cứ để chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 266, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự; Khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận cho Anh Lê Hoàng N được ly hôn với Chị Nguyễn Thị Kim Th.

2. Về con chung: Không có.

3. Về tài sản chung: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết

4. Về nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

5. Về án phí: Án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn Anh Lê Hoàng N phải nộp là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí Anh N đã nộp là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0002158 ngày 10/3/2020 của Chi Cục thi hành án dân sự huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang.

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 22/4/2021. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

191
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 46/2021/HNGĐ-ST ngày 22/04/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình - ly hôn

Số hiệu:46/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giồng Riềng - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về