Bản án 46/2019/HS-ST ngày 28/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUY ĐỨC, TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 46/2019/HS-ST NGÀY 28/11/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 11 năm 2019, tại Tòa án nhân dân huyện Tuy Đức, tỉnh Đắk Nông tiến Hnh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 47/2019/TLST-HS ngày 13 tháng 11 năm 2019; theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 43/2019/QDXXST-HS ngày 15/11/2019 đối với các bị cáo:

1. Lý Văn H, sinh ngày 14/4/2001, tại Đăk Nông; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở trước khi phạm tội: Thôn Đ Th, xã Thuận H, huyện Đ S, tỉnh Đăk Nông; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ văn hóa: 7/12; Dân tộc: Tày; Con ông: Lý Văn H (sinh năm: 1976) và bà Hoàng Thị Nh (sinh năm 1982); Tiền án, tiền sự: không;

Nhân thân: Tại bản án hình sự sơ thẩm số 38/2018/HS - ST ngày 05/7/2018 của Tòa án nhân dân huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông tuyên phạt bị cáo 04 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản”, quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS; Người đại diện hợp pháp của Lý Văn H kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo. Tại bản án hình sự phúc thẩm số 90/2018/HS - PT của TAND tỉnh Đắk Nông không chấp nhận kháng cáo, tuyên y án sơ thẩm. Bị cáo đã chấp Hành xong của bản án theo quy định.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 31/8/2019 cho đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại NH tạm giữ Công an huyện Tuy Đức - Có mặt tại phiên tòa.

2. Vy Văn Nh, sinh năm 1995 tại tỉnh Đồng Nai; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở trước khi phạm tội: Bon M R, xã Đ T, huyện T Đ, tỉnh Đăk Nông; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ văn hóa: 6/12; Dân tộc: Nùng; Con ông: Vy Văn s (sinh năm: 1956) và bà Vy Thị L (sinh năm 1955); tiền sự: không;

Tiền án: 01 tiền án về tội “Cố ý gây thương tích” theo theo bản án sơ thẩm số 35/2018/HS - ST ngày 23/10/2018 của TAND huyện Tuy Đức, tỉnh Đắk Nông tuyên phạt Vy Văn Nh 02 năm 06 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 05 năm về tội “Cố ý gây thương tích”, quy định tại khoản 3 Điều 134 BLHS; VKSND huyện Tuy Đức kháng nghị, bị cáo kháng cáo. Tại bản án phúc thẩm số 09/2019/HS - PT ngày 15/01/2019 của TAND tỉnh Đắk Nông sửa một phần bản án sơ thẩm theo kháng nghị của VKSND huyện Tuy Đức, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên phần hình phạt của án sơ thẩm. Bị cáo chưa chấp Hành xong hình phạt.

Hiện tại ngoại - Có mặt tại phiên tòa

Ngưi bị hại: Anh Hà Đức D, sinh năm 1996; Địa chỉ: Bon M R, xã Đ T, huyện Tuy Đ, tỉnh Đăk Nông - vắng mặt tại phiên tòa

Ngưi có quyền li, nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Đặng Phúc Đ, sinh năm 1988; Địa chỉ: Bon M R, xã Đ T, huyện Tuy Đ, tỉnh Đăk Nôn - vắng mặt tại phiên tòa;

2. Anh Đặng Phúc H, sinh năm 1992; Địa chỉ: Bon M R, xã Đ T, huyện Tuy Đ, tỉnh Đăk Nông - vắng mặt tại phiên tòa;

3. Chị Lâm Thị H, sinh năm 1995; Địa chỉ: Thôn Đ Th, xã Thuận H, huyện Đ s, tỉnh Đăk Nông - vắng mặt tại phiên tòa;

4. Bà Lê Thị Đ, sinh năm 1952; đại chỉ: Bon N R, xã DBS, huyện T Đ, tỉnh Đăk Nông - Vắng mặt tại phiên tòa

5. Bà Triệu Thị M, sinh năm 1967; Địa chỉ: Bon M R, xã Đ T, huyện T Đ, tỉnh Đăk Nông - vắng mặt tại phiên tòa;

6. Ông Lý Văn H, sinh năm 1976; Địa chỉ: Bon M R, xã Đ T, huyện T Đ, tỉnh Đăk Nông - Có mặt tại phiên tòa;

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án đước tóm tắt như sau:

Vào khoảng 17 giờ 30 ngày 03/6/2019, trong lúc uống rượu cùng Vy Văn Nh, Đặng Phúc Đ, Điểu X và T (chưa xác định nhân thân, lai lịch) tại nhà anh Đặng Phúc H (trú tại bon M R, xã ĐắkRTih, huyện Tuy Đ) thì Lý Văn H rủ Vy Văn Nh đến chòi rẫy của gia đình anh Hà Đức D tại bon N R, xã DBS, huyện Tuy Đ, tỉnh Đắk Nông để trộm cắp tài sản bán lấy tiền tiêu xài thì được Vy Văn Nh đồng ý. Lý Văn H điểu khiển xe máy biển số 48AF - 009.17 (xe của ông Lý Văn H là bố đẻ của Lý Văn H) chở Vy Văn Nh đi. Trên đường đi, Vy Văn Nh vào nhà anh Đặng Phúc H lấy một chiếc rìu mang theo để làm công cụ cậy cửa. Khi đến nơi, Lý Văn H dùng rìu phá ổ khóa cửa rồi vào trong lấy 01 bình ắc quy màu trắng đen, nhãn hiệu DONGNAIN70, cả hai chở đến bán cho bà Lê Thị Đ (trú tại bon N R, xã Đ B s, huyện T Đ, là người thu mua phế liệu) được 320.000 đồng (bà Đ không biết tài sản là do trộm cắp mà có).

Sau đó, Lý Văn H và Vy Văn Nh rủ thêm đối tượng Tuấn tiếp tục đến chòi rẫy của gia đình anh H Văn D trộm cắp tài tản bán lấy tiền tiêu xài. Lý Văn H điểu khiển xe máy biển số 48AF - 009.17 chở Vy Văn Nh và Tuấn đến lấy trộm được 01 bình ga hiệu elf gaz, loại 12, 5kg, 01 bếp ga hiệu MITSHUTA, 01 máy phát cỏ hiệu HD741HUYNDAI rồi đưa đi cất giấu. Máy phát cỏ và bếp ga được cất giấu tại nhà Đặng Phúc H, còn bình ga cất giấu tại nhà Vy Văn Nh.

Đến sáng ngày 04/6/2019, Đặng Phúc H biết máy phát cỏ và bếp ga là tài sản do Lý Văn H, Vy Văn Nh và T trộm cắp mà có nhưng Đặng Phúc H vẫn mua chiếc máy phát cỏ trên cho mẹ là bà Triệu Thị M với giá 240.000 đồng. Đến ngày 05/6/2019, Lý Văn H, Vy Văn Nh và T gặp chị Lâm Thị H (là chị họ của Nh) hỏi chị H có mua máy phát cỏ không và nói bán với giá 940.000 đồng thì được chị H đồng ý mua (chị H không biết tài sản là do trộm cắp mà có), Lý Văn H, Vy Văn Nh và Tuấn quay lại nhà bà Triệu Thị M chuộc lại máy phát cỏ để đưa đến cho chị H. số tiền trên các bị can đã tiêu sài cá nhân hết.

Đến ngày 04/6/2019, anh Hà Đức D vào rẫy thì phát hiện bị mất tài sản nên đã làm đơn trình báo cơ quan chức năng. Hành vi trộm cắp của Lý Văn H, Vy Văn Nh và T bị phát hiện và điều tra xử lý theo quy định của pháp luật. Tại Cơ quan CSĐT Công an huyện Tuy Đức, Lý Văn H và Vy Văn Nh đã khai nhận toàn bộ Hành vi phạm tội của mình, đối tượng T hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch.

Tại bản Kết luận định giá số 24/KL-HĐĐGTS ngày 08/8/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện T Đ, kết luận: bình ga đã qua sử dụng, hiệu elf gaz, loại 12, 5kg, có giá trị còn lại là 623.000 đồng; bếp ga đã qua sử dụng, hiệu MITSHUTA, có giá trị còn lại là 670.000 đồng; máy phát cỏ đã qua sử dụng, hiệu HD741HUYNDAI, có giá trị tại còn lại là 450.000 đồng; bình ắc quy đã qua sử dụng, hiệu DONGNAI N70, có giá trị còn lại là 1.490.000 đồng. Tổng giá trị tài sản là 3233.000 đồng. (BL: 50 - 52)

* Về vật chứng vụ án đã thu giữ:

- Xe mô tô biển số 48AF-009.17; bình ga hiệu elf gaz, loại 12, 5kg; bếp ga hiệu MITSHUTA; máy phát cỏ hiệu HD741HUYNDAI và 01 cái rìu lưỡi bằng kim loại, cán bằng gỗ, dài 49 cm. Cơ quan CSĐT Công an huyện Tuy Đức đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại cho các chủ sở hữu hợp pháp.

- Đối với bình ắc quy hiệu DONGNAIN70 không thu giữ được nên không xem xét xử lý.

* Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại là anh Hà Đức D và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là chị Lâm Thị H không yêu cầu bồi thường.

Tại Cáo trạng số 41/CT-VKS ngày 13/11/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Đức truy tố bị cáo Lý Văn H và bị cáo Vy Văn Nh về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Kết quả xét hỏi tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ Hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng và thừa nhận bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Đức, tỉnh Đăk Nông truy tố là đúng, không oan.

Tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Vào ngày 03/6/2019, tại bon N R, xã Đ B s, huyện Tuy Đức, tỉnh Đắk Nông, Lý Văn H và Vy Văn Nh đã có Hành vi lén lút trộm cắp của gia đình anh Hà Đức D01 bình ga đã qua sử dụng, hiệu elf gaz, loại 12,5kg, có giá trị còn lại là 623.000 đồng; 01 bếp ga đã qua sử dụng, hiệu MITSHUTA, có giá trị còn lại là 670.000 đồng; 01 máy phát cỏ đã qua sử dụng, hiệu HD741HUYNDAI, có giá trị còn lại là 450.000 đồng; bình ắc quy đã qua sử dụng, hiệu DONGNAIN70, có giá trị còn lại là 1.490.000 đồng. Tổng giá trị tài sản là 3.233.000 đồng. Hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”.

Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Đức giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Vy Văn Nh và bị cáo Lý Văn H về tội “Trộm cắp tài sản ” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017). Tuy nhiên, quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về Hành vi của mình, các bị cáo có điều kiện kinh tế khó khăn và bị cáo Lý Văn H có ông Ngoại là Hoàng Văn S được nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến chống mỹ hạng nhì năm 1998; Bị cáo Vy Văn Nh phạm tội trong trường hợp tái phạm vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX):

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Xử phạt bị cáo Lý Văn H từ 09 (Chín) tháng đến 12 (Mười hai) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 31/8/2019

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 và Điều 56 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Xử phạt bị cáo Vy Văn Nh từ 12 (Mười hai) đến 15 (Mười lăm) tháng tù về tội “ Trộm cắp tài sản”.

Tổng hợp với bản án số 09/2019/HS - PT ngày 05/01/2019 của TAND tỉnh Đắk Nông tuyên phạt Vy Văn Nh 02 năm 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 05 năm về tội “Cố ý gây thương tích”, quy định tại khoản 3 Điều 134 BLHS chuyển hình phạt 02 năm 06 tháng tù treo sang hình phạt tù 2 năm 06 tháng tù giam. Buộc bị cáo chấp Hành hình phạt tù chung của hai bản án là từ 03 (Ba) năm 06 (Sáu) tháng tù đến 03 (Ba) năm 9 (Chín) tháng tù. Thời gian chấp Hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi Hành án.

* Về vật chứng của vụ án: Áp dụng khoản 1 Điều 46, Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

Chấp nhận việc cơ quan CSĐT Công an huyện Tuy Đ đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại cho các chủ sở hữu hợp pháp là Xe mô tô biển số 48AF-009.17; bình ga hiệu elf gaz, loại 12, 5kg; bếp ga hiệu MITSHUTA; máy phát cỏ hiệu HD741HUYNDAI và 01 cái rìu lưỡi bằng kim loại, cán bằng gỗ, dài 49 cm.

Đối với bình ắc quy hiệu DONGNAI N70 không thu giữ được nên không xem xét xử lý.

* Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không yêu cầu nên không đề nghị xem xét giải quyết.

Phần tranh luận các bị cáo thừa nhận Hành vi phạm tội của minh, không tranh luận gì với vị đại diện Viện kiểm sát chỉ xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Kết thúc phần tranh luận, các bị cáo nói lời sau cùng: các bị cáo xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định như sau:

[1] Về Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tuy Đức, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Đức, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến và khiếu nại về Hành vi, quyết định của cơ quan tiến Hành tố tụng, người tiến Hành tố tụng. Do đó, các Hành vi, quyết định tố tụng, của cơ quan tiến Hành tố tụng, người tiến Hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Các bị cáo có đầy đủ khả năng nhận thức và điều khiển mọi Hành vi của bản thân trong cuộc sống. Các bị cáo cũng như pháp luật buộc bị cáo phải biết tài sản thuộc quyền sở hữu của người khác là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ. Song do ý thức coi thường pháp luật, lười lao động nhưng muốn có tiền tiêu xài nên bị cáo Lý Văn H và bị cáo Vỹ Văn Nh đã có Hành vi lén lút trộm cắp của anh H Văn D01 bình ga đã qua sử dụng, hiệu elf gaz, loại 12,5kg, có giá trị còn lại là 623.000 đồng; 01 bếp ga đã qua sử dụng, hiệu MITSHUTA, có giá trị còn lại là 670.000 đồng; 01 máy phát cỏ đã qua sử dụng, hiệu HD741HUYNDAI, có giá trị còn lại là 450.000 đồng; bình ắc quy đã qua sử dụng, hiệu DONGNAI N70, có giá trị còn lại là 1.490.000 đồng. Tổng giá trị tài sản là 3.233.000 đồng.

Vì vậy, Hành vi của các bị cáo Lý Văn H và bị cáo Vỹ Văn Nh đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản ” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự 2015;

Theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.”

[3] Xét Hành vi của các bị cáo là thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, Hành vi đó đã trực tiếp xâm hại đến tài sản thuộc sở hữu của anh Hà Đức D. Do vậy, HĐXX xét thấy để đảm bảo việc giáo dục các bị cáo trở thành công dân tốt có ý thức chấp Hành nghiêm pháp luật cũng như răn đe phòng ngừa chung, cần xử phạt bị cáo với mức án tương xứng với tính chất, mức độ mà bị cáo gây ra, đồng thời cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian để bị cáo cải tạo mình trở Hành công dân có ích.

Bị cáo Vy Văn Nh đã bị Tòa án nhân dân tỉnh Đăk Nông xử phạt 02 năm 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 5 năm theo bản án số 09/2019/HS-PT ngày 15/01/2019. Trong thời gian thử thách bị cáo lại tiếp thực thực hiện Hành vi trộm cắp tài sản bị cáo phạm tội trong trường hợp tái phạm đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự;

Tại phiên tòa ngày hôm nay cũng như trong quá trình điều tra các bị cáo thành khẩn khai báo về Hành vi phạm tội của mình; các bị cáo có điều kiện kinh tế khó khăn và bị cáo Lý Văn H có ông ngoại là Hoàng Văn S được nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến chống mỹ hạng nhì năm 1998 đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự nên HĐXX sẽ xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ này để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đối với bị cáo Vy Văn Nh đã bị TAND tỉnh Đăk Nông tuyên phạt 02 năm 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo với thời gian thử thách 05 năm về tội “Cố ý gây thương tích”, quy định tại khoản 3 Điều 134 BLHS theo bản án số 09/2019/HS-PT ngày 15/01/2019 nên cần phải chuyển mức án hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo sang hình phạt tù giam và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật hình sự buộc bị cáo phải chấp Hành chung hình phạt của hai bản án.

Đối với đối tượng tên T tham gia trộm cắp với giá trị tài sản là 1.743.000 đồng, do chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên CQCSĐT Công an huyện Tuy Đức tiếp tục điều tra, xác minh khi nào có căn cứ sẽ xử lý sau.

Đối với Lâm Thị H, Lê Thị Đ và Triệu Thị M do không biết tài sản trên do các bị cáo trộm cắp mà có nên không có căn cứ để xử lý theo quy định của pháp luật.

Đối với Đặng Phúc H, Đặng Phúc Đ biết chiếc máy phát cỏ hiệu HD741HUYNDAI và chiếc bếp ga hiệu MITSHUTA là tài sản do các bị can trộm cắp mà có nhưng vẫn mua để sử dụng. Tuy nhiên, tài sản định giá của các tài sản trên có giá trị còn lại không đủ định lượng để xử lý về Hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có nên Cơ quan CSĐT đã chuyển Công an huyện Tuy Đức xử lý Hành chính theo quy định của pháp luật.

Đối với xe mô tô biển số 48AF-009.17; bình ga hiệu elf gaz, loại 12, 5kg; bếp ga hiệu MITSHUTA; máy phát cỏ hiệu HD741HUYNDAI và 01 cái rìu lưỡi bằng kim loại, cán bằng gỗ, dài 49 cm Cơ quan CSĐT Công an huyện Tuy Đức đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại cho các chủ sở hữu hợp là phù hợp nên cần chấp nhận; Đối với bình ắc quy hiệu DONGNAIN70 không thu giữ được nên không xem xét xử lý.

Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại là anh D và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là chị Lâm Thị H không yêu cầu bồi thường nên không xem xét giải quyết;

Về án phí: Buộc bị cáo Lý Văn H và bị cáo Vy Văn Nh phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Lý Văn H và bị cáo Vy Văn Nh phạm tội “Trộm cắp tài sản.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Lý Văn H 01 (Một) năm tù. Thời gian chấp hành án tính từ ngày bắt tạm giam ngày 31/8/2019.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 và Điều 56 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Vy Văn Nh 01 (Một) năm tù về tội “ Trộm cắp tài sản”

Tổng hợp với bản án số 09/2019/HS -PT ngày 15/01/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Đăk Nông về tội “Cố ý gây thương tích” với thời hạn 02 năm 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo; chuyển 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo sang 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù giam. Buộc bị cáo Vy Văn Nh phải chấp hành hình phạt chung là 03 (Ba) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số: 326 ngày 30/12/2016 của UBTVQH14Buộc bị cáo Lý Văn H và bị cáo Vy Văn Nh mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm;

Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án;

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết tại chính quyền địa phương.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

411
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 46/2019/HS-ST ngày 28/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:46/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuy Đức - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về