Bản án 46/2019/HSST ngày 28/03/2019 về tội gá bạc

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI DƯƠNG, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 46/2019/HSST NGÀY 28/03/2019 VỀ TỘI GÁ BẠC

Ngày 28 tháng 3 năm 2019, tại trụ sở, Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 31/2019/TLST-ST ngày 01 tháng 3 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 42/2019/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 3 năm 2018; Quyết định hoãn phiên tòa số: 19/2019/QĐST-HS ngày 22 tháng 3 năm 2019 đối với bị cáo:

1. Nguyễn Thị L, sinh năm 1957, ĐKHKTT và chỗ ở: số 3/16/44 Q, phường B, TP Hải Dương, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn C (đã chết) và con bà Nguyễn Thị V (đã chết); có chồng: ông Nguyễn Minh H (đã chết); có hai con lớn sinh năm 1982, nhỏ sinh năm 1989; Tiền án, tiền sự: không;

Nhân thân:

+ Ngày 07/10/2004, Công an tỉnh Hải Dương xử phạt hành chính về hành vi tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy.

+ Ngày 16/11/2017, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hải Dương xử phạt hành chính về hành vi đánh bạc và chứa bạc. Đã nộp phạt vào ngày 24/11/2017.

+ Ngày 27/12/2018, Công an thành phố Hải Dương xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Đánh bạc.

Đang thực hiện Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 34/LCCT-TA ngày 01/3/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương. Có mặt tại phiên tòa.

2. Người làm chứng:

2.1 Anh Hoàng Trọng K, sinh năm 1965.

Trú tại: Thôn Đ, xã Thái T, huyện N, tỉnh Hải Dương.

2.2: Anh Đinh Văn D, sinh năm 1981.

Trú tại: Khu 9 C, phường B, TP Hải Dương, tỉnh Hải Dương.

2.3 Chị Vũ Thị H, sinh năm 1961.

Trú tại: Số 83, phường Q, TP Hải Dương, tỉnh Hải Dương.

2.4 Chị Bùi Thị M, sinh năm 1965

Trú tại: 6/50 Lê Hồng Phong, phường N, TP Hải Dương, tỉnh Hải Dương.

2.5 Chị Nguyễn Thị T1, sinh năm 1970

Trú tại: số nhà 11/17/207 khu 10 phường B, TP Hải Dương, tỉnh Hải Dương.

2.6 Chị Phạm Thị T, sinh năm 1968

Trú tại: số 3 C1, phường T, TP Hải Dương, tỉnh Hải Dương.

2.7 Chị Nguyễn Thị M1, sinh năm 1966

Trú tại: Khu 9 phường B, TP Hải Dương, tỉnh Hải Dương.

2.8 Chị Đinh Thị Hoài Th, sinh năm 1982

Trú tại: số 58 T, phường Q, TP Hải Dương, tỉnh Hải Dương.

2.9 Anh Nguyễn Quyết Th2, sinh năm 1970

Trú tại: Tiền Tr, phường Á, TP Hải Dương, tỉnh Hải Dương.

2.10 Anh Lương Đình Kh, sinh năm 1987

Trú tại: 26/167 N, khu 3, phường B, TP Hải Dương, tỉnh Hải Dương.

(Những người làm chứng vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12h30’ngày16/12/2018, Nguyễn Thị L đang ở nhà tại số 3/16/44 Q, phường B, thành phố Hải Dương thì chị Nguyễn Thị T ở Khu 10, phường B, TP. Hải Dương; chị Phạm Thị T ở số 3 C1, P. T, TP.Hải Dương; chị Nguyễn Thị M1 ở khu 9, P. B, TP. Hải Dương (đều là bạn của L) đến chơi. Sau đó rủ nhau lên tầng 2 nhà của Lành đánh bạc được thua bằng tiền dưới hình thức đánh phỏm. Cả nhóm chơi được một lúc thì chị Đinh Thị Hoài Th ở 58 T, phường Q, thành phố Hải Dương đến, thấy cả nhóm đang đánh bạc nên cũng vào chơi. Lúc này L không chơi nữa để cho chị Th vào đánh bạc cùng chị T1, chị T, chị M1.

Hình thức chơi là sử dụng bộ tú lơ khơ 52 quân bài, mỗi người chơi được chia 09 quân bài riêng người chia bài được chia 10 quân. Người chơi đánh một quân bài trong bộ bài của mình sang người liền kề bên phải. Người liền kề có thể nhận (ăn) quân bài nếu ghép với các quân bài được bộ ba quân liền nhau hoặc giống nhau trở lên gọi là “phỏm”. Ván chơi kết thúc khi có người “ù” (tức là có tất cả là “phỏm” và không lẻ quân bài nào) hoặc hết quân bài trong bộ bài bốc. Nếu có người “ù” thì thắng của những người còn lại mỗi người 100.000đ x 3= 300.000đ. Nếu không ai “ù” thì tất cả được tính điểm cộng các quân bài lẻ nếu ai ít điểm nhất thì thắng của người thứ hai 20.000 đồng, người thứ ba 40.000 đồng), người thứ tư 60.000 đồng. Nếu người nào không có phỏm (cháy) thì phải trả 80.000 đồng. Tất cả thống nhất nếu có ván “ù” thì người thắng phải trả tiền hồ cho Lành 20.000 đồng/ván.

Đến khoảng 13 giờ cùng ngày, khi cả nhóm đang đánh bạc thì anh Hoàng Trọng K ở xã Thái T, huyện N, tỉnh Hải Dương; anh Đinh Văn D trú tại Khu 9, phường B, TP. Hải Dương; chị Vũ Thị H ở 83 , phường Q, TP. Hải Dương; chị Bùi Thị M trú tại 6/50 Lê Hồng Phong, phường N, TP. Hải Dương (đều là bạn của L) đến. Thấy chị T1, chị T, chị M1 và chị Th đang đánh bạc nên anh K, anh D, chị H, chị M hỏi mượn phòng khách của nhà L để đánh bạc được thua bằng tiền dưới hình thức đánh lốc, Lành đồng ý. Hình thức chơi là sử dụng bộ tú lơ khơ 52 quân bài, mỗi người chơi được chia 10 quân bài. Người chơi đánh một quân bài trong bộ bài của mình sang người liền kề bên phải theo quy luật quân bài từ lớn đến nhỏ. Ván chơi kết thúc khi có một người đánh hết quân bài hoặc có người “báo lốc” thì người đó thắng của những người còn lại 100.000 đồng x 3 = 300.000 đồng. Tất cả thống nhất nếu có người “báo lốc” thắng thì người thắng phải trả tiền hồ cho Lành 20.000 đồng/ván.

Đến khoảng 14h30 phút cùng ngày, khi các chị Th, T1, T, M1 đang đánh phỏm; anh K, anh D, chị H, chị M đang đánh lốc thì bị đội cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội Công an TP. Hải Dương phát hiện lập biên bản, thu giữ gồm: 02 bộ bài tú lơ khơ; số tiền là 2.730.000 đồng tại nơi đánh phỏm; số tiền là 2.520.000 đồng tại nơi đánh lốc. Tổng số tiền thu giữ tại 02 chiếu bạc là 5.250.000 đồng (trong đó có 100.000 đồng là tiền hồ).

Quá trình điều tra, Nguyễn Thị L khai nhận hành vi dùng nhà ở của mình cho hai chiếu bạc đánh bạc (đánh phỏm và đánh lốc) cùng một lúc với tổng số tiền dùng vào việc đánh bạc là 5.250.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số 38/CT-VKS ngày 01/3/2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Dương – tỉnh Hải Dương đó truy tố Nguyễn Thị L về tội “Gá bạc” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 322 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà hôm nay: Bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã khai tại cơ quan điều tra. Đề nghị Hội đồng xét xử xử bị cáo mức án thấp nhất.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Dương giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị:

- Về tội danh: tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị L phạm tội “Gá bạc”.

- Áp dụng: điểm b khoản 1 Điều 322; điểm i, s khoản 1 Điều 51 điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ Luật hình sự; điểm a, b khoản 2 Điều 106; Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Luật phí và lệ phí số 97/2015; Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14 về án phí, lệ phí Toà án.

- Hình phạt chính xử phạt:

+ Bị cáo Nguyễn Thị L từ 12 tháng đến 15 tháng tù , thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

- Hình phạt bổ sung: Không áp dụng.

- Về xử lý vật chứng:

+ Tịch thu số tiền 5.250.000 đồng nộp ngân sách nhà nước.

+ Tịch thu tiêu hủy 02 bộ tú lơ khơ, mỗi bộ gồm 52 quân bài.

- Về án phí: Bị cáo không phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào cỏc tài liệu trong hồ sơ vụ án đó được thẩm tra tại phiên tòa và kết quả đó được tranh tụng tại phiên toà, Tòa án nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Thành phố Hải Dương, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Dương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đó thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng không có người nào có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đó thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo: Lời nhận tội của bị cáo tại phiên toà hôm nay phù hợp với lời khai, bản cung của bị cáo tại Cơ quan điều tra, lời khai của người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 12h30’ ngày 16/12/2018 tại nhà của Nguyễn Thị L ở số 3/16/44 Q, P. B, TP. Hải Dương, L đã đồng ý để cho chị Đinh Thị Hoài Th, chị Nguyễn Thị M, chị Phạm Thị T, chị Nguyễn Thị T1 đánh bạc trái phép bằng hình thức đánh phỏm; anh Hoàng Trọng K, anh Đinh Văn D, chị Vũ Thị H, chị Bùi Thị M đánh bạc trái phép bằng hình thức đánh lốc. Đến khoảng 14h30’ cùng ngày thì bị đội cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội Công an thành phố Hải Dương phát hiện, thu giữ vật chứng. Tổng số tiền dùng vào việc đánh bạc của hai chiếu là 5.250.000 đồng.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đó xâm phạm trực tiếp đến trật tự công cộng ở địa phương. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vì hám lợi bị cáo đã cho các con bạc đánh bạc tại nhà bị cáo, sát phạt nhau bằng tiền dưới hình thức đánh phỏm và đánh lốc, gây mất trật tự trị an cho xã hội ảnh hưởng đến cuộc sống các gia đình và hoạt động bình thường của xã hội.

Xét hành vi của bị cáo là sử dụng Nhà của mình cho 2 chiếu bạc cùng một lúc tổng số tiền dùng vào việc đánh bạc là 5.250.000 đồng, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Gá bạc” theo điểm b khoản 1 Điều 322 của Bộ luật hình sự, vì vậy Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Dương truy tố bị cáo theo tội danh và điều luật trên là có căn cứ đúng pháp luật.

[3].Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS và xử lý đối với bị cáo: Bị cáo L nhân thân đã hai lần bị xử phạt vi phạm hành chính, không có tình tiết tăng nặng, lần đầu phạm tội và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, quá tình điều tra đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình. Do vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ là “thành khẩn khai báo” được quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Bị cáo đã nhiều lần bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc nên cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo mới đủ tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[4] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo L có hoàn cảnh khó khăn, không có tài sản riêng, bản thân là người cao tuổi nên không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.

[5]. Về biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng:

- Cơ quan điều tra thu giữ tại hai chiếu bạc số tiền 5.250.000 đồng vì vậy cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

- Cơ quan điều tra thu giữ 02 bộ tú lơ khơ, mỗi bộ 52 quân bài đây là tang vật cần tịch thu cho tiêu hủy.

[6] Về án phí: Bị cáo là người cao tuổi nên không phải chịu án phí theo luật định.

[7] Về các vấn đề khác: Đối với Nguyễn Thị T1, Phạm Thị T, Nguyễn Thị M1, Đinh Thị Hoài Th có hành vi đánh bạc với số tiền là 2.520.000 đồng và Hoàng Trọng K, Đinh Văn D, Vũ Thị H, Bùi Thị M có hành vi đánh bạc sát phạt với số tiền là 2.730.000 đồng và đều chưa có tiền án, tiền sự về hành vi đánh bạc, tổ chức đánh bạc, gá bạc nên chưa cấu thành tội phạm Đánh bạc theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự. Do đó, Công an TP. Hải Dương đã ra các Quyết định xử phạt vi phạm hành chính là có căn cứ.

Đối với hành vi tham gia đánh bạc trái phép dưới hình thức đánh phỏm của bị cáo L cùng với chị Nguyễn Thị T1, chị Phạm Thị T và chị Nguyễn Thị M, Công an thành phố Hải Dương đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính là phù hợp.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 322; điểm i, s khoản 1 Điều 51; điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ Luật hình sự; điểm a, b khoản 2 Điều 106; Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Toà án.

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị L phạm tội “Gá bạc”.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị L 12 (Mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

2. Về biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng:

- Tịch thu số tiền 5.250.000 đồng nộp ngân sách nhà nước.

- Tịch thu tiêu hủy 02 bộ tú lơ khơ, mỗi bộ có 52 quân bài.

(Hiện trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an thành phố Hải Dương và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Hải Dương).

3. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Thị L không phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

541
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 46/2019/HSST ngày 28/03/2019 về tội gá bạc

Số hiệu:46/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hải Dương - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về