Bản án 46/2019/HS-PT ngày 04/04/2019 về tội gá bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 46 /2019/HS-PT NGÀY 04/04/2019 VỀ TỘI GÁ BẠC

Ngày 04/4/2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa mở phiên tòa công khai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 34/2019/TLPT-HS ngày 28 tháng 01 năm 2019, đối với bị cáo Phạm Lệ T do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 298/2018/HSST ngày 28/11/2018 của Tòa án nhân dân thành phố N, tỉnh Khánh Hòa.

Bị cáo có kháng cáo: Phạm Lệ T - sinh năm: 1960 tại Khánh Hòa; nơi cư trú: Tổ 20 Trường Phúc, phường V, thành phố N, Khánh Hòa; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Bảo vệ; trình độ học vấn: 09/12; con ông Phạm C và bà Nguyễn Thị L; vợ: Trần Thị Ngọc L (1958), có 03 con, lớn nhất sinh năm 1983, nhỏ nhất sinh năm 1992; Tiền án, tiền sự, nhân thân: Không; Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Năm 2013, Phạm Lệ T mở một quán bán cà phê, nước giải khát trên vỉa hè tại ngã ba đường C - H, phường V, thành phố N. Đến khoảng cuối 2016, Thành cho phép những người khách tại quán nước của mình chơi đánh bạc ăn tiền nhằm hưởng lợi thu tiền xâu từ các bàn đánh bạc, đồng thời có thêm nhiều khách đến quán uống nước và bán được bài tú lơ khơ 52 lá.

Nhận được tin báo tố giác tội phạm của quần chúng nhân dân, khoảng 14 giờ 30 phút, ngày 16/12/2017, Tổ công tác của Công an thành phố N phối hợp với Công an phường V tiến kiểm tra quán nước của Thành tại địa chỉ trên phát hiện có mười lăm người đang đánh bài “phỏm” cùng một lúc tại 04 (bốn) bàn dưới hình thức thắng thua bằng tiền mặt nên đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Tổ công tác thu giữ trên tay Thành một gói nylon màu vàng bên trong có 1.200.000đ, thu trong người Thành số tiền 400.000đ và 01 điện thoại hiệu Samsung màu trắng, thu giữ tại quán nước 84 bộ bài tú lơ khơ 52 lá và 05 rổ nhựa (dùng để phục vụ việc chơi đánh bạc thu tiền xâu). Cụ thể:

- Bàn số 01: Các đối tượng chơi đánh bạc gồm Trần Xuân V, Huỳnh Văn C, Nguyễn D, Nguyễn Đình T. Thu tại bàn 01 bộ bài, 01 rổ nhựa và 250.000đ là tiền dùng để đánh bạc và tiền xâu. Tổng số tiền mà các con bạc sử dụng để đánh bạc tại Bàn số 01 là 3.258.000đ (ba triệu hai trăm năm mươi tám nghìn đồng).

- Bàn số 02: Các đối tượng chơi đánh bạc gồm Trần B, Nguyễn Văn H, Nguyễn Trí H, Nguyễn Minh C. Thu tại bàn 01 bộ bài, 01 rổ nhựa và 90.000đ là tiền dùng để đánh bạc và tiền xâu. Tổng số tiền mà các con bạc trực tiếp sử dụng để đánh bạc tại Bàn số 02 là 3.590.000đ (ba triệu năm trăm chín mươi nghìn đồng).

- Bàn số 03: Các đối tượng chơi đánh bạc gồm Trần Thị Ngọc H, Nguyễn Nam K, Lê Anh K. Thu trên bàn 01 bộ bài, 01 rổ nhựa và 142.000đ là tiền dùng để đánh bạc và tiền xâu. Tổng số tiền mà các con bạc trực tiếp sử dụng để đánh bạc tại Bàn số 03 là 1.920.000đ (một triệu chín trăm hai mươi nghìn đồng).

- Bàn số 04: Các đối tượng chơi đánh bạc gồm Trịnh Minh D, Đồng Văn S, Nguyễn Phú Q, Võ Thị N. Thu trên bàn 01 bộ bài, 01 rổ nhựa và 130.000đ là tiền dùng để đánh bạc và tiền xâu. Tổng số tiền mà các con bạc trực tiếp sử dụng để đánh bạc tại Bàn số 04 là 960.000đ (chín trăm sáu mươi nghìn đồng).

Tổng số tiền dùng để đánh bạc của cả bốn bàn trên là 10.540.000đ (mười triệu năm trăm bốn mươi nghìn đồng).

Bản án hình sự sơ thẩm số 298/2018/HS-ST ngày 28/11/2018 của Tòa án nhân dân thành phố N, tỉnh Khánh Hòa đã áp dụng điểm b khoản 1 Điều 322; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Phạm Lệ T 01 năm 06 tháng tù về tội “Gá bạc”. Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.

Ngày 05/12/2018, bị cáo Phạm Lệ T có đơn kháng cáo xin được hưởng án treo.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Khánh Hòa đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm vì xét thấy hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, mức hình phạt cấp sơ thẩm áp dụng đã tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo và tại cấp phúc thẩm bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ nào mới.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của bị cáo còn trong thời hạn luật định nên hợp lệ.

[2] Về nội dung: Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Phạm Lệ T đã khai nhận toàn bộ hành vi bị cáo đã thực hiện đúng như bản án sơ thẩm đã nêu. Lời khai của bị cáo phù hợp với Biên bản phạm tội quả tang, lời khai của người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ đã được Cơ quan Cảnh sát điều tra thu thập. Như vậy, có đủ căn cứ để kết luận: Bản án hình sự sơ thẩm số 298 201 H T ngày 28/11/201 của Tòa án nhân dân thành phố N đã xử phạt bị cáo Phạm Lệ T về tội “Gá bạc” theo điểm b khoản 1 Điều 322 của Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét nội dung kháng cáo: Xét thấy hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây bất ổn và ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự tại địa phương. Bị cáo biết việc làm của mình là sai trái nhưng vì ham lợi nên vẫn thực hiện do vậy cần xử phạt nghiêm. Tuy nhiên, xét thấy sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo có đơn và được địa phương xác nhận hoàn cảnh gia đình khó khăn, là lao động chính trong gia đình. Bên cạnh đó, quá trình điều tra, truy tố và xét xử, bị cáo luôn thành khẩn khai báo; ăn năn hối lỗi; bản thân chưa có tiền án tiền sự, tính chất phạm tội ít nghiêm trọng. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy cần chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên mức hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo cũng đủ tác dụng răn đe và giáo dục bị cáo.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị. Bị cáo không phải nộp tiền án phí hình sự phúc thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 355, điểm e khoản 1 Điều 357 của Bộ luật tố tụng Hình sự.

1. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phạm Lệ T, sửa bản án sơ thẩm.

Tuyên bố: Bị cáo Phạm Lệ T phạm tội “Gá bạc”.

2. Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 322; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật hình sự năm 2015 đối với bị cáo Phạm Lệ T.

Tuyên xử: Xử phạt bị cáo Phạm Lệ T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Gá bạc” nhưng cho bị cáo được hưởng án treo, thời gian thử thách là 03 (ba) năm kể từ ngày tuyên án phúc thẩm.

Giao bị cáo Phạm Lệ T cho Ủy ban nhân dân phường V, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa giám sát và giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Trong trường hợp bị cáo Phạm Lệ T thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 69 của Luật thi hành án hình sự.

3. Bị cáo Phạm Lệ T không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

418
  • Tên bản án:
    Bản án 46/2019/HS-PT ngày 04/04/2019 về tội gá bạc
  • Số hiệu:
    46/2019/HS-PT
  • Cấp xét xử:
    Phúc thẩm
  • Lĩnh vực:
    Hình sự
  • Ngày ban hành:
    04/04/2019
  • Từ khóa:
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 46/2019/HS-PT ngày 04/04/2019 về tội gá bạc

Số hiệu:46/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về