Bản án 46/2019/HNGĐ-ST ngày 18/06/2019 về ly hôn giữa chị T và anh L

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ V, TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 46/2019/HNGĐ-ST NGÀY 18/06/2019 VỀ LY HÔN GIỮA CHỊ T VÀ ANH L

Ngày 18 tháng 6 năm 2019 tại phòng xử án, Tòa án nhân dân thành phố V tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 69/2019/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 3 năm 2019 về tranh chấp ly hôn và nuôi con, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 373/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 25 tháng 4 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 437/2019/QĐST-DS ngày 20/5/2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Trần Thị T, sinh năm 1993, nơi cư trú: số nhà 37, đường T, Phường B, thành phố V, tỉnh Vĩnh Long, vắng mặt.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Trần L, sinh năm 1971, nơi cư trú: số 37, đường T, Phường B, thành phố V, tỉnh Vĩnh Long, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện xin ly hôn ngày 20 tháng 02 năm 2019 nguyên đơn chị Trần Thị T trình bày: Chị T và anh Nguyễn Trần L sau thời gian tìm hiểu đi đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn, theo giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số: 14/2018 ngày 12 tháng 02 năm 2018, chị T cùng anh L chung sống được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, đời sống hôn nhân không hạnh phúc và đã sống ly thân với nhau.

Vì mâu thuẫn nêu trên, nên chị T yêu cầu giải quyết được ly hôn với anh L. Chị T và anh L chung sống với nhau có 01 người con chung tên là Nguyễn Trần V, sinh ngày 18 tháng 9 năm 2018, khi ly hôn chị T yêu cầu được nuôi con chung, yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 6.000.000 đồng.

Tài sản chung; nợ chung: Chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Anh Nguyễn Trần L đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Chị Trần Thị T và anh Nguyễn Trần L kết hôn năm 2018, có đăng ký kết hôn đứng trình tự quy định của pháp luật, sống chung với nhau một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, nên chị T có đơn yêu cầu xin được ly hôn với anh L, chị T và anh L đều đăng ký hộ khẩu thường trú tại thành phố V. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố V, Tòa án nhân dân thành phố V thụ lý giải quyết theo thủ tục sơ thẩm là đứng quy định của pháp luật. Đồng thời, anh L đã được triệu tập hợp lệ lần thứ 2 nhưng vắng mặt không lý do, chị T có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, nên áp dụng điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt chị T, anh L là đúng quy định.

[2] Về nội dung: Theo chứng cứ do chị T cung cấp có trong hồ sơ vụ án, thể hiện chị T và anh L có đăng ký kết hôn, giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số: 14/2018 ngày 12 tháng 02 năm 2018. Thời gian chung sống thì phát sinh mâu thuẫn và không tự giải quyết được, cuộc sống không hạnh phúc dẫn đến việc chị T và anh L sống ly thân, anh L được triệu tập nhiều lần không đến tham gia giải quyết, từ đó cho thấy anh L không có thiện chí muốn hàn gắn tình cảm vợ chồng, mâu thuẫn đã thật sự trầm trọng, nên xét thấy việc chị T yêu cầu được ly hôn với anh L là có cơ sở chấp nhận, đúng với quy định tại các Điều 51 và khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Chị T và anh L chung sống với nhau có 01 người con chung tên là Nguyễn Trần V, sinh ngày 18 tháng 9 năm 2018. Chị T yêu cầu được nuôi con chung. Xét thấy từ khi ly thân với nhau cháu V là do chị T nuôi dưỡng và cháu V còn nhỏ cần có sự chăm sóc của người mẹ, anh L được triệu tập nhiều lần không đến tham gia giải quyết vụ án, nên để cháu V cho chị T tiếp tục nuôi dưỡng là hợp lý, đúng với quy định tại Điều 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[4] Về cấp dưỡng: Chị T yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con là đúng quy định. Tuy nhiên, chị T yêu cầu mức cấp dưỡng 6.000.000 đồng/tháng là chưa đủ cơ sở chấp nhận, nên buộc anh L cấp dưỡng theo quy định của pháp luật là phù hợp theo quy định tại Điều 110 của Luật Hôn nhân và gia đình, mức cấp dưỡng bằng ½ mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định (1.390.000 đồng), như vậy buộc anh L cấp dưỡng mỗi tháng 700.000 đồng là đúng quy định.

[5] Về tài sản chung; nợ chung: Chị T không yêu cầu giải quyết, nên không phải xem xét.

[6] Theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, trong vụ án hôn nhân và gia đình nguyên đơn phải chịu tiền án phí, do đó chị T phải chịu án phí số tiền phải nộp là 300.000 đồng. Đồng thời, theo quy định tại điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, người có nghĩa vụ cấp dưỡng định kỳ hoặc một lần theo quyết định của Tòa án phải chịu án phí sơ thẩm như đối với trường hợp vụ án dân sự không có giá ngạch, anh L có nghĩa vụ cấp dưỡng nên anh phải chịu án phí số tiền phải nộp là 300.000 đồng

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Áp dụng khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 và Điều 81, 82, 83 và 110 của Luật Hôn nhân và gia đình.

Áp dụng điểm a khoản 5; điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân:

- Cho chị Trần Thị T ly hôn với anh Nguyễn Trần L.

2. Về nuôi con chung:

- Giao cháu Nguyễn Trần V, sinh ngày 18 tháng 9 năm 2018 cho chị Trần Thị T nuôi dưỡng.

- Anh Nguyễn Trần L đóng góp nuôi con với chị Trần Thị T số tiền 700.000đ/tháng (Bảy trăm ngàn đồng), kể từ ngày án có hiệu lực pháp luật và có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi cháu Nguyễn Trần V thành niên (đủ 18 tuổi).

Không ai được quyền ngăn cản việc thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung đối với anh L, nhưng nếu anh L lạm dụng việc thăm nom để gây cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì chị T có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con đối với anh L.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Không giải quyết, do đương sự không có yêu cầu.

4. Về án phí sơ thẩm:

- Buộc chị Trần Thị T phải nộp là 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng), tiền án phí sơ thẩm hôn nhân & gia đình trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố V, theo biên lai thu tiền số 0004358 ngày 26/02/2019.

- Buộc anh Nguyễn Trần L phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) tiền án phí sơ thẩm về cấp dưỡng nuôi con.

5. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

239
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 46/2019/HNGĐ-ST ngày 18/06/2019 về ly hôn giữa chị T và anh L

Số hiệu:46/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vĩnh Long - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về