Bản án 46/2019/HNGĐ-ST ngày 17/04/2019 về yêu cầu ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN XUYÊN MỘC, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU

 BẢN ÁN 46/2019/HNGĐ-ST NGÀY 17/04/2019 VỀ YÊU CẦU LY HÔN

Ngày 17 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Xuyên Mộc, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình sơ thẩm thụ lý số: 375/2018/TLST- HNGĐ ngày 16/8/2018 về việc: “Yêu cầu ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 25/2019/QĐST-HNGĐ ngày 11 tháng 3 năm 2019 và quyết định hoãn phiên tòa số: 32/2019/QĐST-HNGĐ ngày 28 tháng 3 năm 2019, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Nguyễn Minh T, sinh năm 1980 (có mặt) Địa chỉ: Tổ 3, ấp A, xã B, huyện C, tỉnh BR - VT.

Bị đơn: Bà Võ Thị N, sinh năm 1988 (vắng mặt) Địa chỉ: Tổ 3, ấp A, xã B, huyện C, tỉnh BR - VT.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 06/8/2018, bản khai, biên bản không tiến hành hòa giải được và tại phiên tòa nguyên đơn ông Nguyễn Minh T trình bày:

Về hôn nhân: Ông Nguyễn Minh T và bà Võ Thị N chung sống với nhau từ năm 2008, có đăng ký kết hôn tại UBND xã B, huyện C, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu. Hôn nhân là hoàn toàn tự nguyện, không bị ai mai mối hay ép buộc. Trước khi kết hôn ông T và bà N có thời gian tìm hiểu nhau và được hai bên gia đình đồng ý tổ chức lễ cưới.

Sau khi kết hôn, ông T và bà N chung sống hạnh phúc đến năm 2017 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn trầm trọng và kéo dài cho đến ngày hôm nay.

Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống từ đó vợ chồng thường xuyên cãi vã nhau. Ngoài ra, bà N làm ăn thua lỗ dẫn đến nợ nần nên bà N bỏ nhà đi một thời gian. Sau khi tôi thanh toán bớt nợ nần cho bà N thì bà N quay về nhà nhưng không quan tâm chăm sóc gia đình như trước. Việc này ông T và bà N đã nhiều lần ngồi lại tìm cách khắc phục nhưng không được.

Từ đầu năm 2018 cho đến nay, ông T và bà N sống ly thân, không còn quan hệ gì về mọi mặt từ kinh tế cho đến chuyện tình cảm, bà N đã về nhà ba mẹ ruột của bà N sinh sống.

Nay ông T xét thấy tình cảm vợ chồng giữa ông T và bà N thực sự không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên ông T yêu cầu Tòa án giải quyết cho ông T được ly hôn với bà N.

Về con chung: Ông Nguyễn Minh T và bà Võ Thị N có 04 con chung là Nguyễn Thị Mỹ Đ, sinh ngày: 20/11/2009; Nguyễn Hữu T, sinh ngày: 19/11/2011; Nguyễn Ngọc Thiên H, sinh ngày: 14/8/2013 và Nguyễn Thị Thanh T, sinh ngày: 16/7/2015. Con chung đang sống với ông T, ông T có nguyện vọng nuôi dưỡng con chung và tự nguyện không yêu cầu bà N phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Ông Nguyễn Minh T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Ông Nguyễn Minh T không yêu cầu Tòa án giải quyết Đối với bà Võ Thị N, trong suốt quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt các văn bản tố tụng, cụ thể như: Thông báo về việc thụ lý vụ án, các thông báo về việc mở phiên họp giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử để bà N thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình, cũng như tham gia phiên tòa nhưng bà N đều vắng mặt không có lý do.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuyên Mộc tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng đã chấp hành đúng các quy định của luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án. Nguyên đơn đã chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ của mình. Bị đơn không chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ của mình, cụ thể là vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án nên đề nghị Hội đồng xét xử, xét xử vắng mặt bà N theo quy của pháp luật.

Về hôn nhân, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Về con chung, giao cả 04 con chung cho ông T nuôi dưỡng, ông T không yêu cầu cấp dưỡng nên tạm thời bà N không phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung và nợ chung, ông T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên. Tòa án nhân dân huyện Xuyên Mộc nhận định:

[1]. Về thẩm quyền giải quyết và quan hệ tranh chấp: Ông Nguyễn Minh T yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với bà Võ Thị N, có nơi cư trú tại huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Nên xác định quan hệ tranh chấp của vụ án là “Yêu cầu ly hôn” và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Xuyên Mộc, theo quy định tại khoản 1 Điều 28, Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Về hôn nhân: Căn cứ giấy chứng nhận kết hôn số 102, quyển số 01 ngày 03/11/2008 của Ủy ban nhân dân xã B, huyện C, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xác định, hôn nhân của ông T và bà N là hợp pháp. Sau khi kết hôn thì ông T và bà N chung sống hạnh phúc, đến năm 2017 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm trong công việc làm ăn, tính tình của hai vợ chồng không hợp nhau nên vợ chồng thường xuyên cãi vã nhau. Ngoài ra, bà N làm ăn thua lỗ dẫn đến nợ nần, ông T đã phải đứng ra trả nợ cho bà N rất nhiều lần. Việc này, ông T đã tìm cách hàn gắn tình cảm nhưng không được. Hiện nay, bà N và ông T đã sống ly thân không còn quan hệ gì về mọi mặt từ kinh tế cho đến tình cảm.

[3] Qua xác minh cho thấy, trong thời gian bà N và ông T chung sống tại địa phương thì bà N và ông T có xảy ra mâu thuẫn, vợ chồng thường xuyên cãi vã nhau và hiện tại ông T và bà N đang sống ly thân. Nay ông T yêu cầu ly hôn thì đề nghị Tòa án căn cứ theo quy định của pháp luật để giải quyết.

[4] Xét thấy mâu thuẫn giữa ông Nguyễn Minh T và bà Võ Thị N đã đến mức trầm trọng, tình cảm vợ chồng thực sự không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt nên áp dụng Điều 56, Điều 57 Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu ly hôn của ông T đối với bà N.

[5]. Về con chung: Ông Nguyễn Minh T và bà Võ Thị N có 04 con chung là Nguyễn Thị Mỹ Đ, sinh ngày: 20/11/2009; Nguyễn Hữu T, sinh ngày: 19/11/2011; Nguyễn Ngọc Thiên H, sinh ngày: 14/8/2013 và Nguyễn Thị Thanh T, sinh ngày:

16/7/2015. Con chung đang ở với ông T, ông T có nguyện vọng nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu bà N cấp dưỡng nuôi con nên tạm thời bà N không phải cấp dưỡng nuôi con.

[6]. Về tài sản chung và nợ chung: Ông Nguyễn Minh T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7]. Về nợ chung: Ông Nguyễn Minh T và bà Võ Thị N không có nợ chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[8]. Về án phí: Ông Nguyễn Minh T phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 56, khoản 1 Điều 57 và các Điều 81, 82, 83, 84 và 85 Luật hôn nhân gia đình năm 2014;

Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, tuyên xử: :

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Minh T, ông T được ly hôn với bà Võ Thị N.

2. Về con chung: Ông Nguyễn Minh T và bà Võ Thị N có 04 (bốn) con chung là Nguyễn Thị Mỹ Đ, sinh ngày: 20/11/2009; Nguyễn Hữu T, sinh ngày: 19/11/2011; Nguyễn Ngọc Thiên H, sinh ngày: 14/8/2013 và Nguyễn Thị Thanh T, sinh ngày:

16/7/2015. Con chung đang ở cùng với ông T, ông T được quyền trực tiếp nuôi dưỡng cả 04 con chung và tự nguyên không yêu cầu bà N phải cấp dưỡng nuôi con. Tạm thời bà N không phải cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên; người không trực tiếp nuôi dưỡng có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở; cha mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc chăm nom, chăm sóc, giáo dục con.

Vì quyền lợi của con chung, một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu Toà án thay đổi người trực tiếp nuôi dưỡng con chung hoặc yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Ông Nguyễn Minh T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Về án phí: Ông Nguyễn Minh T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) ông T đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0003054 ngày 16 tháng 8 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Xuyên Mộc. Ông T đã nộp đủ án phí sơ thẩm, bà N không phải nộp án phí.

5. Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận hoặc bản án được niêm yết theo quy định để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

182
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 46/2019/HNGĐ-ST ngày 17/04/2019 về yêu cầu ly hôn

Số hiệu:46/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Xuyên Mộc - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về