Bản án 46/2019/HNGĐ ngày 10/07/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẠ LONG, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 46/2019/HNGĐ NGÀY 10/07/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Trong ngày 10 tháng 7 năm 2019, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 217/2019/TLST-HNGĐ ngày 22 tháng 3 năm 2019 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 76/2019/QĐXXST-DS ngày 07 tháng 6 năm 2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Đào Thị T - sinh năm 1983

Nơi cư trú: Tổ 4 khu 11 phường V, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh.

Có mặt tại phiên tòa.

Bị đơn: Anh Vũ Quang K - Sinh năm 1975

Nơi cư trú: Tổ 4 khu 11 phường V, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn chị Đào Thị T trình bày trong đơn khởi kiện, bản tự khai và tại phiên tòa như sau:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Vũ Quang K tự do tìm hiểu và kết hôn với nhau, đăng ký kết hôn ngày 23/4/2007 tại UBND phường V, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh. Trước khi kết hôn hai bên có thời gian tìm hiểu nhau và kết hôn trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống đến năm 2010 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do hai bên bất đồng quan điểm nên vợ chồng thường xuyên xảy ra xô xát cãi chửi nhau. Anh K không quan tâm đến gia đình vợ con, hay uống rượu về chửi bới và đe dọa đánh chị. Mâu thuẫn đã từ lâu, chị thấy cuộc sống gia đình áp lực căng thẳng, một mình chị lo toan cho gia đình chăm sóc con cái lại bị anh K hay chửi bới xúc phạm nên ảnh hưởng đến tâm lý của chị và các con. Mặc dù anh K đã hứa nhiều lần sửa chữa nhưng vẫn không thay đổi, gần đây anh K nhiều lần đánh và đuổi chị đi. Đến nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, chị không thể chung sống với một người chồng như vậy nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho được ly hôn với anh Vũ Quang K.

Về con chung: Vợ chồng anh chị có hai con chung là Vũ Thị Hà P sinh ngày 03/9/2008 và Vũ Minh K sinh ngày 02/4/2014. Khi ly hôn chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con đến tuổi thành niên (đủ 18 tuổi). Anh K không có việc làm ổn định nên chị không yêu cầu anh K cấp dưỡng nuôi con. Tại phiên tòa chị thay đổi quan điểm đề nghị giao con chung Vũ Minh K cho anh K trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi thành niên (đủ 18 tuổi). Hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Vũ Quang K trình bày quan điểm trong biên bản lấy lời khai tại Tòa án như sau:

Anh và chị Đào Thị T tự do tìm hiểu và kết hôn với nhau, đăng ký kết hôn ngày 23/4/2007 tại UBND phường V, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh. Trước khi kết hôn hai bên có thời gian tìm hiểu nhau và kết hôn trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh thỉnh thoảng vui hội họp bạn bè có uống rượu về có chửi bới vợ nhưng anh cho rằng đó chỉ là những mâu thuẫn nhỏ, anh vẫn còn yêu thương vợ nên anh không đồng ý ly hôn, anh đề nghị Tòa án giải quyết cho vợ chồng về đoàn tụ.

Về con chung: Vợ chồng anh chị có hai con chung như chị T trình bày là đúng. Quan điểm của anh nếu Tòa án giải quyết cho ly hôn anh đề nghị được trực tiếp nuôi cả hai con đến tuổi thành niên (đủ 18 tuổi) và không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa chị Đào Thị T vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và quan điểm như đã trình bày; anh Vũ Quang K vắng mặt nên không có quan điểm.

Tại đơn đề nghị xác nhận chị T đề nghị có xác nhận của tổ dân và UBND phường V thể hiện vợ chồng chị T anh K có phát sinh mâu thuẫn do anh K hay uống rượu về chửi bới và đe dọa đánh vợ. Vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn đánh cãi nhau. Một mình chị T lo toan chăm sóc, dạy dỗ hai con lại hay bị anh K chửi bới, đe dọa nên chị thấy áp lực căng thẳng. Chị T thấy không thể chung sống với người chồng như vậy nên đề nghị Tòa án xem xét giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tại Biên bản lấy lời khai ngày 16/5/2019 của cháu Vũ Thị Hà P sinh ngày 03/9/2008 là con chung của chị T anh K, cháu có nguyện vọng muốn được ở với mẹ vì mẹ là người quan tâm chăm sóc cháu tốt hơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

Quá trình tiến hành tố tụng cũng như tại phiên tòa nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật; bị đơn chưa thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật.

[2]Về quan hệ hôn nhân: Chị Đào Thị T và anh Vũ Quang K đăng ký kết hôn ngày 23/4/2007 tại UBND phường V trên cơ sở tự nguyện là quan hệ hôn nhân hợp pháp nên phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa vợ chồng theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình.

Sau khi kết hôn, theo chị T trình bày vợ chồng bất đồng quan điểm sống nên thường xuyên xảy ra xô xát cãi chửi nhau. Anh K không quan tâm đến gia đình vợ con, hay uống rượu về chửi bới và đe dọa đánh chị. Mâu thuẫn đã từ lâu, chị thấy cuộc sống gia đình áp lực căng thẳng, một mình chị lo toan cho gia đình chăm sóc con cái lại bị anh K hay chửi bới xúc phạm nên ảnh hưởng đến tâm lý của chị và các con. Gần đây anh K không thay đổi thường xuyên chửi bới và đuổi chị đi. Chị đã làm đơn trình bày và đã được tổ dân và UBND phường xác nhận về mâu thuẫn thực tế của hai vợ chồng. Anh K có quan điểm đề nghị Tòa án hòa giải cho vợ chồng về đoàn tụ, Tòa án ra Thông báo phiên hòa giải vào ngày 07/5/2019 nhưng anh K không đến Tòa án để tham gia hòa giải, như vậy thể hiện anh K không thiện chí trong việc đoàn tụ gia đình. Vì vậy yêu cầu xin ly hôn của chị Đào Thị T là có cơ sở phù hợp với quy định tại Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình nên được chấp nhận.

[3] Về con chung: Chị Đào Thị T và anh Vũ Quang K có hai con chung là Vũ Thị Hà P sinh ngày 03/9/2008 và Vũ Minh K sinh ngày 02/4/2014. Chị T có quan điểm được trực tiếp nuôi cháu P, đề nghị giao cho anh K trực tiếp nuôi cháu K đến tuổi thành niên. Hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con. Tại biên bản lấy lời khai cháu Vũ Thị Hà P thể hiện có nguyện vọng muốn ở với mẹ và xác nhận từ trước đến nay mẹ là người chăm sóc cháu tốt nên Hội đồng xét xử giao cháu Vũ Thị Hà P cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi thành niên; giao cháu Vũ Minh K cho anh K T trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi thành niên là phù hợp với quy định của pháp luật.

[4] Về tài sản chung: Các đương sự không yêu cầu nên không xem xét.

[5] Về khoản nợ chung: Các đương sự xác nhận không có nợ chung nên không xem xét.

[6] Về án phí: Chị T phải nộp án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 4 Điều 147, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận đơn khởi kiện về yêu cầu xin ly hôn của chị Đào Thị T.

1.Về quan hệ hôn nhân: Chị Đào Thị T được ly hôn anh Vũ Quang K.

2.Về con chung: Giao con chung là Vũ Thị Hà P sinh ngày 03/9/2008 cho chị T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng đến tuổi thành niên (đủ 18 tuổi); giao con chung Vũ Minh K sinh ngày 02/4/2014 cho anh K trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng đến tuổi thành niên (đủ 18 tuổi). Hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con và có quyền thăm nom con chung không ai được cản trở. Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên trong gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng con chung.

3.Về tài sản chung: đương sự không yêu cầu nên không xem xét.

4.Về các khoản nợ: Không có nên không xem xét.

5.Về án phí: Chị Đào Thị T phải nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền 300.000 đ (Ba tăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí chị T đã nộp theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0000800 ngày 22/3/2019 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh. Chị T đã nộp đủ án phí.

Án xử công khai sơ thẩm, báo cho nguyên đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được tống đạt hợp lệ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

228
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 46/2019/HNGĐ ngày 10/07/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:46/2019/HNGĐ
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hạ Long - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 10/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về