Bản án 461/2020/HS-ST ngày 05/11/2020 về tội cố ý làm hư hỏng tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 461/2020/HS-ST NGÀY 05/11/2020 VỀ TỘI CỐ Ý LÀM HƯ HỎNG TÀI SẢN

Trong ngày 05 tháng 11 năm 2020 tại Hội trường A Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 422/2020/HSST ngày 13 tháng 10 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 473/2020/QĐXXHS-ST ngày 27/10/2020 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Thế K, sinh năm 1995 tại tỉnh Quảng Bình; thường trú: Thôn T xã T, huyện T tỉnh Quảng Bình; tạm trú: Tổ 1 đường V, khu phố T, phường H, Thành phố K, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Thế T, sinh năm 1965 và con bà Võ Thị L, sinh năm 1971, bị cáo có vợ tên Phạm Thị L, sinh năm 1994 và có 01 con sinh năm 2019; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 01/7/2020 đến ngày 07/7/2020 được hủy bỏ biện pháp tạm giữ bằng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt.

2. Nguyễn Ngọc T, sinh năm 1983 tại tỉnh Phú Yên; thường trú: Thôn A xã Đ, huyện H, tỉnh Phú Yên; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Tự L, sinh năm 1962 và con bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1962, bị cáo có 03 anh em, bị cáo là thứ 3; tiền án, tiền sự : Không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 01/7/2020 đến ngày 07/7/2020 được hủy bỏ biện pháp tạm giữ bằng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt.

3. Phan Thanh H, sinh năm 1986 tại tỉnh Tiền Giang; thường trú: Ấp M xã N, huyện G tỉnh Tiền Giang; tạm trú: 56/5/4 đường 6 tổ 10 khu phố 3, phường X, quận Đ Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: sửa xe; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; con ông Phan Văn M (đã chết) và con bà Nguyễn Thị D, bị cáo có vợ tên Nguyễn Thị N, sinh năm 1987 và có 01 con sinh năm 2016; tiền án, tiền sự : Không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 01/7/2020 đến ngày 07/7/2020 được hủy bỏ biện pháp tạm giữ bằng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt.

Bị hại: Anh Nguyễn Anh D, sinh năm 1986; thường trú: 234/35 khu phố A, phường H Thành phố K, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Chị Nguyễn Thị E, sinh năm 1977; thường trú: 69/33 đường D2, phường 25, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh, vắng mặt.

-Người làm chứng: 1. Anh Trần Hải A, sinh năm 1999;

 2. Anh Hoàng Đắc Q, sinh năm 1984;

3. Anh Trương Thế H1, sinh năm 1991;

4. Anh Cao Xuân T, sinh năm 1977;

5. Anh Phan Quốc H2, sinh năm 1985;

6. Anh Lê Ngọc T, sinh năm 1988;

7. Chị Nguyễn Thị Kim X, sinh năm 1991, tất cả vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 17 giờ 00 ngày 01/7/2020, các bị cáo Nguyễn Thế K, Nguyễn Ngọc T, Phan Thanh H cùng với các anh Trương Thế H1, Trần Hải A, Hoàng Đức Q, Trương Thế T, Cao Xuân T1, Phan Quốc H2, Lê Ngọc T2 tổ chức ăn uống ở khu vực khu phố Đông Thành, phường Tân Đông Hiệp, Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Khoảng 20 giờ 00 cùng ngày tất cả nghỉ để đến quán Karaoke Cây Sứ địa chỉ khu phố Đông Thành, phường Tân Đông Hiệp hát. Tại đây chị Trịnh Thị Kim X là quản lý quán sắp xếp cho tất cả ngồi tại phòng số 2. Trong khi hát K bấm bài hát không được nên dùng tay đập vào màn hình chọn bài hát thì chị X nhắc nhở, cả nhóm tiếp tục hát khoảng 20 phút K dùng chân đạp nhiều cái vào màn hình bấm bài làm bể màn hình. Lúc này, cả nhóm tính tiền đi về. Sau khi tính tiền xong, anh Nguyễn Anh D là chủ quán karaoke Cây Sứ yêu cầu K bồi thường màn hình đã bị làm hư hỏng, K không đồng ý. Thấy vậy, nhân viên của quán đóng cửa quán lại để đợi Công an đến giải quyết. Lúc này, H điều khiền xe mô tô hiệu Airblade biển số52S6-0738 tông vào cửa cuốn, T lấy 01 cây sắt dài 04 mét đập vào cửa cuốn làm hư hỏng 01 phần cửa. Công an phường Tân Đông Hiệp đến lập biên bản phạm tội quả tang đối với các bị cáo.

Vật chứng thu giữ và xử lý vật chứng: 01 cây sắt tròn dài 04m; 01 cửa cuốn bị hư hỏng 06 thanh lá cuốn; 01 màn hình cảm ứng bấm bài hát karaoke hiệu VietMTV loại 22 inch; 01 xe mô tô hiệu Honda Airblade biển số 52S6- 0738; 01 USB chứa dữ liệu ghi hình các bị cáo tại quán Cây Sứ.

Đi với 01 cây sắt tròn dài 04m, 01 cửa cuốn bị hư hỏng 06 thanh lá cuốn, 01 màn hình cảm ứng bấm bài hát karaoke hiệu VietMTV loại 22 inch đã trả lại cho bị hại. Riêng 01 USB chứa dữ liệu ghi hình lưu giữ trong hồ sơ.

Đi với xe mô tô hiệu Honda Airblade biển số 52S6-0738 là tài sản hợp pháp của anh Trương Thế H1, anh H1 cho H mượn xe. Cơ quan điều tra đã trả anh H1.

Kết luận định giá số 115/BB.ĐG ngày 09/7/2020 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự Thành phố Dĩ An, kết luận: Chi phí sửa chữa màn hình cảm ứng bấm bài hát karaoke, nhãn hiệu VietMTV, loại 22 inch là 7.000.000 đồng.

Kết luận định giá số 118/BB.ĐG ngày 09/7/2020 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự Thành phố Dĩ An, kết luận: Chi phí sữa chữa chân cửa cuốn hiệu Mitadoor công nghệ của Đức, bị phá hỏng 06 lá cửa cuốn trị giá là 4.000.000 đồng.

Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo K, T và H đã bồi thường cho bị hại D 14.000.000 đồng, anh Dũng có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Cáo trạng số 453/CT – VKS ngày 12 tháng 10 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố các bị cáo Nguyễn Thế K, Nguyễn Ngọc T, Phan Thanh H về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” theo khoản 1 Điều 178 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Dĩ An giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ.

+ Khoản 1 Điều 178, điểm b, i, s khoản 1, 2 Điều 51 và Điều 65 Bộ luật hình sự. Nghị quyết số 02/2018/NQ - HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối Cao. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thế K từ 07 đến 09 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 14 tháng đến 18 tháng.

+ Khoản 1 Điều 178, điểm b, i, s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 58 và Điều 65 Bộ luật hình sự. Nghị quyết số 02/2018/NQ - HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối Cao. Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc T, Phan Thanh H mỗi bị cáo từ 06 đến 08 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách tứ 12 tháng đến 16 tháng.

Trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án, các bị cáo nói lời sau cùng: Các bị cáo xin được xem xét giảm nhẹ mức hình phạt thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Chứng cứ xác định có tội của các bị cáo: Biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang, lời khai bị hại, người làm chứng, lời khai các bị cáo, kết luận định giá tài sản, quá trình tranh tụng tại phiên tòa thể hiện: Vào lúc 20 giờ 30 phút ngày 01/7/2020 tại quán Karaoke cây sứ địa chỉ khu phố Đông Thành, phường Tân Đông Hiệp, Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương, do bấm bài hát không được bị cáo Nguyễn Thế K đã dùng tay đập làm hư hỏng màn hình cảm ứng bấm bài hát gây thiệt hại phải sửa hết 7.000.000 đồng, bị cáo Nguyễn Ngọc T, Phan Thanh H dùng cây sắt, xe mô tô biển số 52S6- 0738 tông, đập vào cửa sắt gây thiệt hại phải sửa chữa trị giá 4.000.000 đồng. Như vậy, hành vi trên của các bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” quy định khoản 1 Điều 178 Bộ luật Hình sự.

Bản cáo trạng số 453/CT-VKS ngày 12/10/2020 của Viện kiểm sát Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố các bị cáo cũng như trình bày luận tội của Kiểm sát viên đối với các bị cáo là có căn cứ pháp luật.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo K, T và H không có Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo đã bồi thường thiệt hại cho bị hại, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa thể hiện thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo. Các tình tiết trên được quy định điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Về nhân thân: Tất cả các bị cáo có nhân thân tốt thể hiện việc có việc làm ổn định, không có tiền án, tiền sự, các bị cáo nhất thời phạm tội.

[2] Về tính chất mức độ tội phạm: Các bị cáo K, T và H phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng do có khung hình phạt đến 03 năm tù, các bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện tội phạm một cách cố ý. Hành vi phạm tội của các bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến tài sản của bị hại Dũng được pháp luật bảo vệ mà còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần xử phạt các bị cáo mức án nghiêm tương xứng với với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện đủ để giáo dục, cải tạo các bị cáo cũng như có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.

[3] Trong vụ án có đồng phạm đối với bị cáo T, H do các bị cáo cùng thực hiện việc gây hư hỏng cửa cuốn, nhưng thuộc trường hợp đồng phạm giản đơn do các bị cáo không có bàn bạc, phân công vai trò cho nhau, các bị cáo tham gia với vai trò người thực hành.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại D đã được các bị cáo bồi thường xong. Do vậy, Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Xét, các bị cáo K, T và H có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, có nơi cư trú rõ ràng, nhất thời phạm tội, các bị cáo có khả năng tự cải tạo, không gây nguy hiểm cho xã hội, không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Xét thấy, không cần phải bắt các bị cáo chấp hành hình phạt tù. Do vậy, Hội đồng xét xử áp dụng Điều 65 Bộ luật Hình sự xử phạt tù cho hưởng án treo giao các bị cáo về chính quyền địa phương nơi cư trú để giám sát, giáo dục cũng có tác dụng giáo dục, răn đe phòng ngừa chung.

[6] Đối với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương đưa ra tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân và mức hình phạt đối với các bị cáo phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử do vậy được chấp nhận.

[7] Về thủ tục tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Thành phố Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra các bị cáo, người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[8] Án phí sơ thẩm: Các bị cáo phải nộp án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Thế K, Nguyễn Ngọc T, Phan Thanh H phạm tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” 1.1 Căn cứ vào khoản 1 Điều 178; điểm b, i, s khoản 1, 2 Điều 51 và Điều 65 Bộ luật Hình sự. Nghị quyết số 02/2018/NQ - HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối Cao.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thế K 08 (tám) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 01 (một) năm 04 (bốn) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Nguyễn Thế K cho Ủy ban nhân dân phường H giám sát giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp bị cáo K thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo Điều 92 của Luật Thi Hành án Hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

1.2 Căn cứ vào khoản 1 Điều 178; điểm b,i, s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 58 và Điều 65 Bộ luật Hình sự. Nghị quyết số 02/2018/NQ - HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối Cao.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc T 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 01 (một) năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Nguyễn Ngọc T cho Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện H, tỉnh Phú Yên giám sát giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp bị cáo T thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo Điều 92 của Luật Thi Hành án Hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

1.3 Căn cứ vào khoản 1 Điều 178; điểm b, i, s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 58 và Điều 65 Bộ luật Hình sự. Nghị quyết số 02/2018/NQ - HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối Cao.

Xử phạt bị cáo Phan Thanh H 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 01 (một) năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Phan Thanh H cho Ủy ban nhân dân phường X, quận Đ, Thành phố Hồ Chí Minh giám sát giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp bị cáo H thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo Điều 92 của Luật Thi Hành án Hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Về án phí: Căn cứ Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 Các bị cáo Nguyễn Thế K, Nguyễn Ngọc T, Phan Thanh H mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí Hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

141
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 461/2020/HS-ST ngày 05/11/2020 về tội cố ý làm hư hỏng tài sản

Số hiệu:461/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về