Bản án 459/2020/DS-PT ngày 04/06/2020 về tranh chấp hợp đồng mua bán căn hộ

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 459/2020/DS-PT NGÀY 04/06/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN CĂN HỘ

Trong các ngày 21, 28 tháng 5 và ngày 04 tháng 6 năm 2020, tại phòng xử án của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 652/2019/TLPT-DS ngày 24 tháng 12 năm 2019, về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán căn hộ”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 610/2019/DS-ST ngày 28/10/2019 của Tòa án nhân dân quận B, Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 391/2020/QĐ-PT ngày 10 tháng 02 năm 2020, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Nguyễn Thành L, sinh năm 1983; Bà Ngô Thị Quỳnh T, sinh năm 1986.

Địa chỉ: 291 đường T, phường C, Quận V, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị đơn: Công ty TNHH sản xuất kinh doanh HT Địa chỉ: 1185 Quốc lộ 1A, phường Đ, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh. Người đại diện theo ủy quyền: Bà Nguyễn Nhất Bảo T1 (theo Giấy ủy quyền ngày 24/02/2020 và bà Huỳnh Thị Thúy N theo Giấy ủy quyền ngày 18/5/2020) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo nội dung vụ án tại bản án sơ thẩm:

Theo nội dung đơn khởi kiện ngày 19/01/2018, bản tự khai và biên bản hòa giải, nguyên đơn trình bày:

Ngày 27/12/2010, ông (ông Nguyễn Thành L) và bà (bà Ngô Thị Quỳnh T) ký Hợp đồng số 12/HĐMB.BTĐ.HT (sau đây gọi tắt là Hợp đồng) với Công ty TNHH sản xuất kinh doanh HT (sau đây gọi tắt là Công ty) về việc mua bán căn hộ chung cư số 231 thuộc Dự án Chung cư Đ, phường Đ, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh (sau đây gọi tắt là Căn hộ).

Trong quá trình thực hiện Hợp đồng, các bên có các tranh chấp phát sinh như sau:

Về việc chậm bàn giao Căn hộ: Tại khoản 9.1 Điều 9 của Hợp đồng thì bên bán có trách nhiệm bàn giao Căn hộ cho bên mua vào ngày 23/10/2011, biên độ thời gian dao động cho phép trễ bàn giao Căn hộ là 03 tháng (thời gian bàn giao Căn hộ thực tế có thể sớm hoặc muộn hơn 03 tháng).

Thực tế ngày 04/3/2013, Công ty mới bàn giao căn hộ cho vợ chồng ông bà. Theo khoản 8.4 Điều 8 của Hợp đồng thì trường hợp bên bán bàn giao căn hộ chậm so với thời gian quy định thì phải trả cho bên mua số tiền lãi phát sinh trên tổng số tiền mà bên mua đã thanh toán với mức lãi suất (tương đương 1% giá trị đã thanh toán/tháng), được tính bắt đầu từ ngày trễ hạn bàn giao Căn hộ cho đến ngày bàn giao Căn hộ thực tế cho bên mua. Số tiền lãi quá hạn này sẽ được cấn trừ vào đợt thanh toán cuối cùng theo Hợp đồng. Các bên đồng ý rằng ngoài việc thanh toán tiền lãi chậm như vậy, bên bán không phải thanh toán bất kỳ khoản tiền nào khác cho bên mua.

Tính đến thời điểm nhận bàn giao Căn hộ (ngày 04/3/2013) ông, bà đã thanh toán cho Công ty số tiền 527.149.056 đồng. Tuy nhiên, Công ty không thừa nhận hành vi vi phạm hợp đồng của mình và không tiến hành bồi thường theo thỏa thuận trong Hợp đồng. Công ty bàn giao căn hộ cho ông bà chậm 13 tháng 07 ngày so với thời gian quy định, như vậy Công ty phải bồi thường số tiền là 69.759.391 đồng (527.149.056 đồng x 1%/tháng x 13 tháng 07 ngày).

Về cách tính diện tích Căn hộ: Theo khoản 1 Điều 12 của Hợp đồng, diện tích Căn hộ được xác định theo nguyên tắc tính kích thước thông thủy hoặc tính từ tim tường bao, tường ngăn chia các Căn hộ.

Theo diện tích đo đạc thực tế, diện tích thông thủy là 48,14m2; Diện tích tim tường là 51,4m2.

Theo khoản 2 Điều 101 của Luật Nhà ở năm 2005Thông tư số 03/2014/TT-BXD ngày 20/02/2014 của Bộ Xây dựng thực hiện theo cách tính thông thủy; Cơ quan chức năng cấp giấy chứng nhận theo cách tích thông thủy. Do đó, lệ phí cấp giấy chứng nhận chủ quyền Căn hộ cũng được cơ quan nhà nước thu theo cách tính thông thủy là 48.14m2. Tuy nhiên, Công ty yêu cầu ông, bà thanh toán theo cách tính diện tích tim tường 51.4m2 là không phù hợp.

- Về việc hoàn trả Giấy chứng nhận quyền sở hữu Căn hộ: Theo khoản 4 Điều 13 của Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014 từ thời điểm bàn giao nhà trong vòng 50 ngày, bên bán phải làm thủ tục để cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở cho bên mua. Tuy nhiên, từ thời điểm bàn giao nhà cho đến nay, Công ty vẫn chưa thực hiện nghĩa vụ theo quy định của pháp luật.

Nay ông L và bà T khởi kiện yêu cầu:

- Công ty bồi thường số tiền chậm bàn giao Căn hộ là 69.759.391 đồng.

- Yêu cầu Công ty thực hiện cách tính diện tích căn hộ theo diện tích thông thủy được cơ quan nhà nước công nhận là 48,14m2 thay vì tính theo diện tích tim tường là 52,4m2.

- Ông, bà rút lại yêu cầu Công ty phải trả Giấy chứng nhận quyền sở hữu căn hộ cho vợ chồng ông, bà.

Bị đơn – Công ty TNHH sản xuất kinh doanh HT trình bày:

- Về việc chậm bàn giao Căn hộ: Căn cứ khoản 9.4 Điều 9 của Hợp đồng quy định: Bên mua được nhận Căn hộ khi đáp ứng điều kiện thanh toán đủ 95% giá trị hợp đồng cho Công ty. Theo đó, ngay sau khi ông L, bà T đạt điều kiện về tỷ lệ thanh toán thì Công ty tiến hành bàn giao căn hộ theo quy định, Do đó, không phát sinh vấn đề chậm bàn giao căn hộ như trình bày trong đơn khởi kiện của nguyên đơn. Đây là hợp đồng song vụ, việc khách hàng thanh toán đạt 95% giá trị hợp đồng là điều kiện bắt buộc làm phát sinh trách nhiệm bàn giao căn hộ của Công ty, nghĩa là khi khách hàng chưa thanh toán đủ 95% giá trị hợp đồng thì chưa đủ điều kiện nhận bàn giao Căn hộ trong mọi trường hợp.

- Về diện tích của Căn hộ: Căn cứ quy định của pháp luật tại thời điểm các bên giao dịch mua bán Căn hộ, thì thỏa thuận về cách tính diện tích không trái quy định của pháp luật. Diện tích mua bán Căn hộ thể hiện trên hợp đồng là 52.53m2. Sau khi hoàn tất xây dựng, các bên tiến hành đo đạc lại diện tích thực tế theo đúng cách đã thỏa thuận trong Hợp đồng làm cơ sở quyết toán Hợp đồng nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng cho các bên, theo đó các bên đã đo đạc lại diện tích Căn hộ mà ông L, bà T mua là 51.40m2, diện tích này giảm 1.13m2, đây là diện tích thực tế để các bên thanh toán Hợp đồng, giá trị phần diện tích giảm sẽ được cấn trừ vào đợt thanh toán cuối cùng khi ông L, bà T quyết toán Hợp đồng.

- Về việc hoàn trả Giấy chứng nhận quyền sở hữu căn hộ: Sau khi hai bên tất toán xong, Công ty sẽ bàn giao sổ hồng cho ông L, bà Trúc.

Bn án sơ thẩm đã tuyên xử:

Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn – ông Nguyễn Thành L và bà Ngô Thị Quỳnh T.

Buộc Công ty TNHH Sản xuất Kinh doanh HT phải thanh toán cho ông Nguyễn Thành L và bà Ngô Thị Quỳnh T số tiền là 90.746.511 đồng; Trong đó tiền lãi do chậm trễ bàn giao căn hộ là 69.759.391 đồng và tiền chênh lệch diện tích là 20.987.120 đồng, trả một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Số tiền này còn được cấn trừ vào đợt thanh toán cuối cùng khi ông L, bà T quyết toán hợp đồng với Công ty TNHH Sản xuất Kinh doanh HT.

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án vẫn chưa thanh toán số tiền như nêu trên thì hàng tháng còn phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo mức lãi suất được quy định tại Điều 357 và Điều 468 của Bộ luật Dân sự tương ứng với thời gian chậm thực hiện tại thời điểm thanh toán.

Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu của nguyên đơn về việc buộc Công ty TNHH Sản xuất Kinh doanh HT trả sổ hồng do nguyên đơn rút yêu cầu.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên án về án phí, nghĩa vụ thi hành án và quyền kháng cáo của các đương sự.

Sau khi xét xử sơ thẩm, Ngày 12/11/2019, bị đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Đại diện Công ty trình bày: Công ty không đồng ý với toàn bộ nội dung giải quyết tại bản án sơ thẩm, cụ thể:

- Về việc chậm bàn giao căn hộ: Qua sự giải thích của Hội đồng xét xử, Công ty nhận thấy trách nhiệm của mình trong việc chậm bàn giao căn hộ cho nguyên đơn. Công ty đồng ý việc Tòa cấp sơ thẩm chấp nhận số tiền chậm bàn giao căn hộ là 69.759.391 đồng. Tuy nhiên Công ty đề nghị nguyên đơn giảm cho Công ty 9.759.391 đồng, Công ty sẽ thanh toán 60.000.000 đồng cho nguyên đơn.

- Đối với cách tính diện tích căn hộ: Tại thời điểm hai bên giao dịch mua bán Căn hộ thì thỏa thuận về cách tính diện tích Căn hộ không trái quy định của pháp luật, diện tích ghi nhận tại Hợp đồng là 52,53m2, sau khi hoàn tất xây dựng Căn hộ thì diện tích thực tế là 51,4m2, diện tích này giảm 1,13m2, đây là diện tích chính thức để hai bên thanh quyết Hợp đồng, diện tích này sẽ được dùng để tính khi các bên thanh lý Hợp đồng. Tuy nhiên, Tòa cấp sơ thẩm lại căn cứ vào diện tích được công nhận trên giấy chứng nhận để làm cơ sở tính giá trị thanh lý Hợp đồng là chưa khách quan, chưa đúng ý chí thỏa thuận của hai bên.

Do đó, Công ty kháng cáo đề nghị sửa bản án sơ thẩm, chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn về việc chậm bàn giao căn hộ, không chấp nhận về cách tính diện tích theo phương pháp thông thủy.

Nguyên đơn trình bày: Hiện nay, hợp đồng mua bán căn hộ chưa được quyết toán do liên quan đến cách tính diện tích. Trong vụ án này ông bà cũng không có yêu cầu quyết toán hợp đồng. Ông, bà xác định lại yêu cầu khởi kiện cụ thể:

- Đòi tiền lãi do chậm bàn giao Căn hộ;

- Xác định cách tính diện tích Căn hộ theo quy định của Hợp đồng là theo phương pháp thông thủy làm cơ sở quyết toán hợp đồng.

Đồng ý với nội dung của bản án sơ thẩm, không có ý kiến gì thêm.

Đi diện viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu ý kiến: Về tố tụng: Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Chủ tọa, Hội đồng xét xử đã tiến hành đúng các quy định của pháp luật, những người tham gia phiên tòa đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo luật định.

Vnội dung:

- Về việc chậm bàn giao căn hộ: Công ty đồng ý việc Tòa cấp sơ thẩm chấp nhận số tiền Công ty phải thanh toán do chậm bàn giao Căn hộ là 69.759.391 đồng. Tuy nhiên, Công ty đề nghị nguyên đơn giảm cho Công ty 9.759.391 đồng, còn phải thanh toán là 60.000.000 đồng nhưng tại phiên tòa nguyên đơn không đồng ý giảm.

- Đối với cách tính diện tích căn hộ: Tại thời điểm hai bên giao dịch mua bán Căn hộ thì thỏa thuận về cách tính diện tích Căn hộ không trái quy định của pháp luật, diện tích ghi nhận tại Hợp đồng là 52,53m2, sau khi hoàn tất xây dựng Căn hộ thì diện tích thực tế là 51,4m2 (diện tích này giảm 1,13m2 trong giới hạn cho phép của Hợp đồng).

Đây là diện tích chính thức để hai bên thanh quyết Hợp đồng. Tuy nhiên, Tòa cấp sơ thẩm lại căn cứ vào diện tích được công nhận trên giấy chứng nhận để làm cơ sở tính giá trị thanh lý Hợp đồng là chưa khách quan, chưa đúng ý chí thỏa thuận của hai bên.

Do đó, Công ty kháng cáo đề nghị sửa bản án sơ thẩm, chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn về việc chậm bàn giao Căn hộ, xác định diện tích Căn hộ làm căn cứ thanh lý hợp đồng là 51,4m2 là có cơ sở.

Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn, sửa bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận và sau khi nghe ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về hình thức: Đơn kháng cáo của Công ty trong hạn luật định, hợp lệ nên được chấp nhận.

[2]. Về nội dung kháng cáo:

[2.1]. Đối với yêu cầu trả lãi do chậm thực hiện nghĩa vụ bàn giao căn hộ:

Tại phiên tòa phúc thẩm, Công ty đồng ý việc Tòa cấp sơ thẩm buộc Công ty thanh toán số tiền chậm bàn giao Căn hộ là 69.759.391 đồng là đúng theo thỏa thuận của Hợp đồng.

Công ty đề nghị nguyên đơn giảm cho Công ty số tiền 9.759.391 đồng, còn phải thanh toán là 60.000.000 đồng, tuy nhiên nguyên đơn không đồng ý giảm bớt số tiền 9.759.391 đồng.

Như vậy, Tòa cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc buộc bị đơn trả tiền lãi do chậm thực hiện nghĩa vụ bàn giao Căn hộ là phù hợp với khoản 9.1 Điều 9 của Hợp đồng và có căn cứ chấp nhận.

[2.2]. Đối với cách tính diện tích căn hộ:

[2.2.1]. Hợp đồng được xác lập ngày 27/10/2010 nên pháp luật áp dụng là Luật Nhà ở năm 2005.

- Khoản 2 Điều 70 Luật nhà ở năm 2005 quy định: Phần sở hữu riêng trong nhà chung cư bao gồm: a) Phần diện tích bên trong căn hộ, bao gồm cả diện tích ban công, lôgia gắn liền với căn hộ đó;

- Khoản 2 Điều 21 Thông tư số 16/2010/TT-BXD ngày 01/9/2010 của Bộ Xây dựng về hướng dẫn Luật Nhà ở 2005 cho phép các chủ đầu tư được áp dụng hai phương pháp tính diện tích căn hộ, cụ thể: “Diện tích sàn căn hộ mua bán được xác định theo nguyên tắc kích thước thông thủy của căn hộ hoặc tính từ tim tường bao, tường ngăn chia các căn hộ”.

Như vậy, tại thời điểm xác lập Hợp đồng, pháp luật cho phép được tính diện tích chung cư theo cả hai cách tính “diện tích thông thủy” và “diện tích tim tường – còn gọi là diện tích sàn xây dựng”.

Điều 2 của Hợp đồng quy định: “Diện tích căn hộ được tính là diện tích bên trong căn hộ (kể cả diện tích ban công, lôgia gắn liền với căn hộ)”.

Khoản 12.1 Điều 12 của Hợp đồng quy định: “Bên mua được quyền sở hữu riêng đối với phần diện tích sàn Căn hộ (được xác định theo nguyên tắc tính kích thước thông thủy của Căn hộ hoặc tính từ tim tường bao, tường ngăn chia các căn hộ)”.

Như vậy, ý chí của các bên khi ký kết Hợp đồng về việc tính diện tích Căn hộ là sử dụng cả hai loại “diện tích thông thủy” và “diện tích tim tường – còn gọi là diện tích sàn xây dựng” và cách tính diện tích này phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 70 Luật Nhà ở năm 2005 và khoản 2 Điều 21 Thông tư số 16/2010/TT-BXD ngày 01/9/2010 của Bộ Xây dựng.

[2.2.2]. Tại Bản vẽ đo đạc – xác nhận diện tích thực tế (Bút lục số 90) các bên xác nhận:

... “Diện tích đo thực tế: Diện tích này làm căn cứ để tính phí quản lý và thanh lý hợp đồng.

- Theo Điều 02 của Hợp đồng thể hiện diện tích được tính theo bên trong căn hộ (kể cả ban công, lô gia gắn liền với căn hộ).

- Diện tích đo theo cách tính trên Hợp đồng là 51,4m2.

Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CS 04624/DA do Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 26/9/2016 cho ông L và bà T đối với căn hộ chung cư 2.06 (tầng 3) có nội dung về diện tích sàn (thông thủy) là 48,2m2; diện tích sàn căn hộ (tim tường) là 51,4m2.

Hai bên không yêu cầu quyết toán hợp đồng nên Tòa cấp sơ thẩm chấp nhận số tiền chênh lệch diện tích là 20.987.120 đồng sẽ được cấn trừ vào đợt thanh toán cuối cùng là chưa phù hợp. Trong trường hợp hai bên có tranh chấp về quyết toán hợp đồng thì có quyền khởi kiện bằng vụ án khác.

Từ nhận định [2.2.1] và [2.2.2] có cơ sở xác định: Ý chí của hai bên khi tham gia Hợp đồng là sử dụng diện tích sàn căn hộ (tim tường) là 51,4m2 làm căn cứ thanh toán.

Tòa cấp sơ thẩm nhận định khi ký Hợp đồng, ý chí của hai bên khi tham gia Hợp đồng là sử dụng diện tích thông thủy (48,2m2 ) làm căn cứ thanh toán là không đúng theo thỏa thuận tại Điều 2, Điều 12 của Hợp đồng và không đúng theo quy định tại khoản 2 Điều 70 Luật Nhà ở năm 2005, khoản 2 Điều 21 Thông tư số 16/2010/TT-BXD ngày 01/9/2010 của Bộ Xây dựng.

Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm có cơ sở chấp nhận một phần kháng cáo của Công ty về việc xác định diện tích căn hộ khi thanh toán Hợp đồng.

[3]. Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo kháng nghị có hiệu lực pháp luật.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[4]. Về án phí:

- Án phí dân sự sơ thẩm:

+ Nguyên đơn phải chịu án phí không giá ngạch đối với yêu cầu xác định sử dụng diện tích thông thủy (48,2m2 ) thành tiền là 300.000 đồng, cấn trừ vào số tiền 1.743.985 đồng tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0043442 ngày 30 tháng 01 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự quận B, Thành phố Hồ Chí Minh. Ông L, bà T được nhận lại số tiền còn lại là 1.443.985 đồng.

+ Bị đơn phải chịu án phí trên số tiền lãi do chậm bàn giao căn hộ là 69.759.391 đồng, thành tiền là 3.487.970 đồng.

- Án phí dân sự phúc thẩm: Do sửa bản án sơ thẩm nên người kháng cáo Công ty TNHH sản xuất kinh doanh HT không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ khoản 2 Điều 70 Luật Nhà ở năm 2005;

Căn cứ khoản 2 Điều 21 Thông tư số 16/2010/TT-BXD ngày 01/9/2010 của Bộ Xây dựng;

n cứ khoản 4 Điều 26, khoản 2 Điều 29, khoản 2 Điều 47 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Chp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của Công ty TNHH sản xuất kinh doanh HT.

Sửa bản án sơ thẩm.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc yêu cầu Công ty TNHH sản xuất kinh doanh HT thanh toán số tiền lãi do chậm bàn giao căn hộ khi thực hiện Hợp đồng số 12/HĐMB.BTĐ.HT ngày 27/12/2010 giữa ông Nguyễn Thành L, bà Ngô Thị Quỳnh T và Công ty TNHH Sản xuất Kinh doanh HT, cụ thể: Buộc Công ty TNHH Sản xuất Kinh doanh HT phải thanh toán cho ông Nguyễn Thành L và bà Ngô Thị Quỳnh T số tiền là 69.759.391 đồng.

Thời hạn thanh toán khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án vẫn chưa thanh toán số tiền như nêu trên thì hàng tháng còn phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo mức lãi suất được quy định tại Điều 357 và Điều 468 của Bộ luật Dân sự tương ứng với thời gian chậm thực hiện tại thời điểm thanh toán.

2. Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc xác định cách tính diện tích theo nguyên tắc tính kích thước thông thủy trong Hợp đồng số 12/HĐMB.BTĐ.HT ngày 27/12/2010.

Xác định diện tích căn hộ dùng để thanh lý Hợp đồng số 12/HĐMB.BTĐ.HT ngày 27/12/2010 là 51,4m2.

3. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu của nguyên đơn về việc buộc Công ty TNHH Sản xuất Kinh doanh HT trả Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CS 04624/DA do Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 26/9/2016.

4. Về án phí:

- Án phí dân sự sơ thẩm:

+ Công ty TNHH sản xuất kinh doanh HT phải chịu số tiền là 3.487.970 đồng.

+ Ông Nguyễn Thành L và Ngô Thị Quỳnh T chịu án phí 300.000 đồng, cấn trừ vào số tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0043442 ngày 30 tháng 01 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự quận B, Thành phố Hồ Chí Minh. ông L, bà T còn được nhận lại là 1.443.985 đồng.

- Án phí dân sự phúc thẩm: Công ty TNHH sản xuất kinh doanh HT không phải chịu. Hoàn trả cho Công ty TNHH sản xuất kinh doanh HT số tiền là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng đã nộp theo Biên lai số AA/2019/0064138 ngày 18/11/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự quận B.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự năm 2014; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự năm 2014.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

818
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 459/2020/DS-PT ngày 04/06/2020 về tranh chấp hợp đồng mua bán căn hộ

Số hiệu:459/2020/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 04/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về